Monday, August 15, 2011

NHỮNG ĐIỀU NÊN BIẾT VỀ UNG THƯ VÚ-PHẦN 2



7.2. Một bệnh nhân đã được giải phẫu hỏi: "Tôi có thể chơi thể thao sau phẫu thuật không?"



Câu trả lời là có. Tuy nhiên bạn cần xin ý kiến bác sĩ phẫu thuật trong trường hợp di căn xương hay suy yếu xương nếu bạn chơi những môn thể thao mạnh về thể xác như squash, golf, quần vợt, v.v.v….họ sẽ liệt kê các điều kiện hạn chế thực hành và thời gian cần thiết để quen dần với bộ môn thể thao. Như thế bác sĩ sẽ kiểm tra xem xét các loại phẫu thuật thực hiện (cắt bỏ vú hoặc sự sự cắt khối u  tumorectomie) với phẫu thuật hạch bạch huyết dưới cánh tay, và xây dựng lại ngay lập tức. Nên ý thức rằng sự mất mát tạm thời tính di động của cánh tay và vai, tác dụng phụ tự nhiên, là một yếu tố có thể nhanh chóng phục hồi bằng cách tập vật lý trị liệu (kinesitherapie) trong thời gian nằm điều trị tại bệnh viện.
Để đẩy nhanh sự phục hồi của di động, bác sỹ khuyên nên tiếp tục một số vật lý trị liệu (kinesitherapie) khi trở về nhà và dần dần làm lại các hoạt động hàng ngày ngoại trừ công việc nặng nhọc như làm nền nhà, sơn phết, giặt ủi, khiên nặng, v.v.v…. Bất kỳ khi nào cảm thấy mệt mỏi ở cánh tay thì bạn nên dừng lại.

Nhưng những lời khuyên này sẽ có tính cách tổng quát. Lời khuyên tốt nhất vẫn là tự lắng nghe cơ thể mình và sự phản ứng của nó. Mỗi bệnh nhân sẽ tự tìm thấy phương án tốt nhất nhanh chóng thích nghi với trường hợp của họ.

Thể thao cũng như tập vật lý trị liệu nói chung không phải chỉ đem lợi ích vật chất mà nó còn làm giảm sự căng thẳng và đưa ra một hình ảnh tự tin cao hơn sự tự chấp nhận, một cảm giác tự do hành độ lớn hơn và cảm thấy ít phụ thuộc vào người khác. Nó cải thiện chất lượng cuộc sống và mang nhiều hứa hẹn. Quá trình hoạt động thể chất đầu tiên đòi hỏi một quyết định trong việc lựa chọn các hoạt động và thời gian trong ngày hoặc tuần để cống hiến và cần phù hợp với chương trình và điều kiện vật chất của họ. Thái độ tích cực sẽ giúp nhận ra những nhu cầu của cơ thể của mình và những giới hạn của nó.

Việc thực hành thường xuyên một môn thể thao sẽ tạo ra một trạng thái tinh thần có nhiều khả năng đối phó với trầm cảm hay loại bỏ hoàn toàn. Chúng ta đừng quên rằng trầm cảm là phần tình cảm gây thương hại đến sự chấp nhận điều trị, và có thể ảnh hưởng đến sự tiến triển của bệnh, mặc dù không có lý luận khoa học nào về việc này. Đối với nhiều bệnh nhân, thực hành lại là một hoạt động thể chất giống như đi từ bóng tối ra ánh sáng.

Mong muốn trở lại càng sớm càng tốt hoạt động thể thao ngày xưa là một dấu hiệu phát triển tích cực trong việc thích nghi với tình hình được tạo ra bởi phẫu thuật. Câu trả lời cho câu hỏi không thể tích cực và tìm lại cảm giác khi trước sẽ làm tăng ước muốn được sống.




7.3  Một bệnh nhân viết: "Tôi đọc trong một tạp chí phụ nữ về phẫu thuật ung thư vú là một lần cắt xén có thể được thay thế bằng phẫu thuật nhỏ tiếp theo là bức xạ. Điều này có đúng không? "


Việc kiểm tra các mô bằng hiển vi và cuộc xâm lấn bởi các tế bào ung thư (đông lạnh trong khi phẫu thuật) có thể nhận ra các giới hạn về sự tiến triển khối u. Khi biên độ cắt bỏ được chứng tỏ khỏe mạnh về khối u (histologiquement có nghĩa là khi có một dải mô khỏe mạnh xung quanh vùng khối u bị cắt) ung thư vú còn nhỏ có thể được chữa khỏi bởi sự cắt khối u (tumorectomie) tiếp theo sau xạ trị.


7.4. Phẫu thuật cắt bỏ khối u chính có thúc đẩy cho sự phân chia tế bào ung thư chăng?


Câu hỏi đặt ra là khá phù hợp nếu người ta biết rằng nhiều tháng hoặc nhiều năm sau phẫu thuật vấn đề di căn là thường được tìm thấy bằng chứng cho thấy là một số tế bào ác tính vẫn còn sống sót và trở thành nguyên nhân phát hiện di căn. Tuy nhiên các điều trị chẩn đoán (acte therapeutique) này không thể xem là không phải là tội phạm, trong khi chúng ta đã biết thời gian tồn tại của di căn đã được phát hiện, kích thước cũng như tốc độ tăng trưởng của nó, có thể xác định thời điểm nào nó được sinh ra. Kể từ năm 1965, sự việc trở nên rõ ràng hơn và hầu như tất cả các di căn phát sinh từ nhiều tháng hoặc nhiều năm trước khi chẩn đoán và điều trị các khối u nguyên phát. Có nghĩa là ung thư vú không phải là một bệnh bùng nổ. Phát hiện này có hàm ý rằng việc đối phó với ung thư không phải là hoàn toàn cho phụ nữ có nguy cơ tái phát cao. Việc tiếp tục điều trị với phẫu thuật cắt bỏ khối u chính phải được tiến hành để giải quyết những tiêu điểm nhỏ ở khoảng cách hóa trị và / hoặc liệu pháp hormone gọi là "hỗ trợ" (giúp điều trị các khối u nguyên phát) trước khi chúng trở thành vĩ mô (macroscopique).


7.5. Tại sao chúng ta cho tầm quan trọng trong việc kiểm tra các hạch bạch huyết dưới cánh tay?


Sự vắng mặt của sự xâm lấn của tế bào khối u hạch bạch huyết đã làm chúng ta tin rằng không có di căn vi thể trong cơ quan cách xa và đây là trường hợp hiếm có chiếm từ 70 đến 80%. Tuy vậy có thể không có sự tham gia của hạch bạch huyết và tồn tại di căn, người ta vẫn cho rằng trong trường hợp này sự lây lan của tế bào ung thư bằng đường máu ... Ngược lại nếu kiểm tra bằng kính hiển vi cho thấy các hạch bạch huyết bị tấn công thì hình như có di căn. Do đó các trường hợp này phải được bổ sung vùng điều trị bằng phẫu thuật với hay không có xạ trị liệu, hay bằng thuốc có thể trị "từ xa" (xem Bảng 4 và 5 và thuyết minh đính kèm). Những loại thuốc này có thể được dùng trong trường hợp muốn giải quyết các hạch bạch huyết ở nách nơi mà các yếu tố khác (như kích thước khối u, trực quan của tế bào ung thư trong các mạch càng hay ít "dữ tợn" hơn các tế bào khối u) làm người ta nghĩ rằng nguy cơ di căn vi mô là quan trọng ... (Xem Bảng 4 và 5 và thuyết minh đính kèm).


7.6. Tôi sẽ có một "cánh tay lớn" chăng?


Để hiểu được cách chữa trị và chú ý theo dõi cánh tay của một người đã bị mổ xẻ nách, chúng ta nên bắt đầu một vài lời về hệ bạch huyết.
Máu được di chuyển đến cơ thể và các bộ phận trong một mạng mạch máu với áp suất động mạch cao. Sự di chuyển máu về tim thông qua một mạch khác nhau ở áp suất thấp và gấp đôi dung tích. Hệ thống tĩnh mạch một phần được quen thuộc với hệ thống tĩnh mạch nằm dưới da, mặt kia là các ống dẫn bạch huyết ở tận cuối các tĩnh mạch chủ thượng lưu, vì thế sự di chuyển tương đối chậm. Hoạt động các cơ bắp giúp sự di chuyển máu nhanh hơn và lưu thông bạch huyết thường xuyên hơn. Sụ di chuyển máu sẽ gia tăng nếu được làm massage (xoa bóp).
Sau phẫu thuật cắt bỏ các hạch bạch huyết trong nách, thoát bạch huyết và bạch huyết có thể cạn kiệt và động lại ở cánh tay và có thể làm sưng lên. Chúng tôi muốn nói đến bệnh phù xuất xứ bạch huyết. Việc điều trị bằng xoa bóp nhằm mục đích hướng giúp đưa qua ống dẫn khác, hoặc cần đến sự điều trị của pressothérapie hay áp dụng băng huyết.
Lời khuyên để ngăn ngừa sưng trong một bộ phận có nguy cơ:
_ Tránh trường hợp bị tiêm chích hay một thử nghiệm máu;
_ Tránh trường hợp khi bị tiêm chích (bất kỳ tụ máu có thể là điểm khởi đầu cho sưng phù);
_ Cần tránh trường hợp người ta điều trị ở nhiệt độ quá cao (ví dụ như bùn);
_ Hãy cẩn thận khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời vì bị cháy nắng có thể thúc đẩy bệnh phù;
_ Hãy coi chừng bị thương (vuốt của mèo, bỏng), đeo găng tay để nấu ăn, vv;
_ Hãy cẩn thận rằng da của bạn cũng cần ẩm ước;
_ Các vết nhỏ màu đỏ, nóng phải đi kiểm tra vì có thể gây nhiễm trùng hoặc bị sưng phù ;
_ Không làm việc quá sức mình như ủi dài giờ, khiên nặng,v.v.v….



7.7. Các kỹ thuật tái tạo vú là gì?





                                        Trước           sau


Nếu không thể tái tạo lại vú lập tức sau phẫu thuật thì bác sỹ sẽ đề nghị làm vú giả tạm thời cho bệnh nhân tại bệnh viện. Sáu đến tám tuần sau khi cắt bỏ vú thì việc ghép vú giả vĩnh viễn có thể thực hiện. Trong trường hợp bộ ngực lớn vú giả sẽ làm cân bằng với vú khác và chủ yếu là tránh làm xấu/chênh lệch cột xương sống. Một bác sĩ chuyên nghiệp sẽ đảm bảo một kết quả tốt về mỹ thuật. Xin lưu ý ở Bỉ lệ phí được hoàn trả sau hai năm với hãng bảo hiểm khi xuất trình chứng nhận y tế.

Trong trường hợp đặc biệt việc tái thiết có thể thực hiện sau khi có đầy đủ các mô lành và phương pháp điều trị bổ sung được kết thúc. Sau khi thảo luận với  bệnh nhân, bác sĩ phẫu thuật và phẫu thuật vú sẽ đề xuất các giải pháp có thể là: nơi đặt vú giả hoặc xây dựng lại phần vú mất đi dựa trên vị trí lưng hay dạ dày. Sự lựa chọn một trong hai kỹ thuật tùy thuộc vào: hình thái học của bệnh nhân,  cuộc đối thoại với các bác sĩ phẫu thuật và khả năng của người mang thai nhưng không có kỹ thuật duy nhất cho việc tái tạo vú. Việc tái tạo vú sẽ được hoàn trả theo thỏa thuận trước với bảo hiểm y tế qua sự thỏa thuận của bác sỹ tư vấn (Bỉ).

7.8. Bác sĩ khuyên có nên tái tạo vú sau khi phẫu thuật tuyến vú không?

Sự quyết định tùy thuộc vào bệnh nhân và phong tục văn hóa cá nhân riêng. Việc tái tạo vú ngay lập tức hoặc trì hoãn phụ thuộc vào thẩm mỹ và tâm lý (như tự nhìn vào mình, vợ hoặc chồng và những người khác, vv.), tình trạng sức khỏe bệnh nhân hay tuổi tác. Tham vấn giữa bác sĩ phẫu thuật, phẫu thuật vú nhựa và bệnh nhân rất cần thiết.

7.9. Khi nào là thời gian tốt nhất để tái tạo vú?

Đối với ung thư vú có nguy cơ thấp ở vùng tái phát (nghĩa là kích thước khối u nhỏ, thiếu các hạch bạch huyết nách, ...), việc tái thiết có thể thực hiện ngay sau phẫu thuật. Ngược lại nếu xét có nguy cơ tái phát thì nên áp dụng tái thiết "trì hoãn" (1 đến 2 năm sau khi cắt bỏ vú) sẽ thích hợp hơn vì nó cho phép bác sĩ theo dỏi tường tận vị trí phẫu thuật trong thời kỳ nguy cơ tái phát tại vùng rất quan trọng.

7.10. Có những nguy cơ rủi ro gì liên quan với tái tạo tuyến vú?

Việc tái tạo tuyến vú trở nên khó khăn hơn nếu phát hiện sự tái phát cùng khu vực. Ngoài ra các biến chứng phụ sau phẫu thuật như nhiễm trùng, viêm tĩnh mạch, ... có thể xảy ra cũng như các khuyết điểm kỹ thuật (hình thành một lớp vỏ xơ xung quanh mô cấy). Trong hầu hết trường hợp việc tái tạo tuyến vú hoàn tất không có vấn đề gì.

7.11. Bác sĩ phẫu thuật của tôi yêu cầu tôi tham gia vào một nghiên cứu để đánh giá kỹ thuật "hạch chính". Xin cắt nghĩa kỹ thuật này là gì?

Kỹ thuật hạch bạch huyết chính có thể đưa đến nhiều rủi ro hơn trong lúc phẫu thuật ung thư vú (sau khi cắt khối u bướu "tumorectomie" dần dần thay thế "cắt bỏ vú") trong tương lai. Kỹ thuật này xác định (bằng cách tiêm thuốc màu hay chất phóng xạ vào gần khối u), phân tích các hạch bạch huyết đầu tiên của khối u. Sự quan tâm rất rõ ràng: nếu hạch đầu tiên cẩn thận phân tích sẽ được miễn truyền nhiễm tế bào ung thư và nguy cơ xâm lấn bởi các hạch khác ở nách không đáng kể (khoảng 2 %)... và niềm hy vọng trong trường hợp này có thể tránh mổ xẻ nách khác mà không ảnh hưởng đến khả năng phục hồi.. và làm giảm nguy cơ rủi ro "cánh tay lớn", cứng vai, đau ở cánh tay, v.v.v...

Tuy nhiên, nếu một "bạch huyết dẫn lưu đã chứng minh" tích cực, nó rất cần thiết để tiến hành bổ sung việc loại bỏ các hạch bạch huyết dẫn lưu mà có thể chứa các tế bào khối u và làm phát sinh, nếu không tại chỗ, tái phát đôi khi nguy kịch.

Kỹ thuật này rất thẫm mỹ và đầy hứa hẹn vẫn là chủ đề chính của việc nghiên cứu lâm sàng. Kỹ thuật này có thể thực hiện một cách an toàn ngày nay và do đội ngũ y khoa được đào tạo tốt, sẽ là những người cân nhắc những dự liệu một cách chuyên nghiệp (kỹ thuật này chưa được xác nhận cho các khối u lớn) trong điều kiện tốt nhất ( hợp tác chặt chẽ cần thiết giữa bác sĩ phẫu thuật và bác sĩ về bệnh học đồng vị - medecin isotope, pathologue).


8. Xạ trị (radiothérapie)
8.1 X là gì?

Dụng cụ thứ hai để chống lại ung thư là xạ trị được phát triển sau tranh thế chiến  thứ nhất. Đó là việc sử dụng bức xạ ion hóa (X-quang, các photon năng lượng cao, nơtron, electron, ...) để tiêu diệt tế bào ung thư tại vị trí của cơ thể, nơi các tia X-quang đưa tới. Trong trường hợp ung thư vú, hai kỹ thuật được sử dụng: xạ trị xuyên qua da, trong đó chùm tia phát ra bởi một máy phát điện nằm bên ngoài cơ thể (như máy gia tốc tuyến tính télécobalthérapie) và liệu pháp phóng xạ (curiethérapie) có thể trị vị trí gốc (kích thước nhỏ) bằng cách phát ra bức xạ trong khối u dưới hình thức sợi bức xạ (irridium) được biết đến như một liều bức xạ. Trong quá trình phẫu thuật, kim rỗng - còn gọi là kim vector được đặt với độ chính xác cao trong các mô khối u, thông qua các kim rỗng sợi bức xạ irridium mềm và mịn được dẫn vào khối u trong vòng 24 giờ.
Không may các tế bào khỏe mạnh bao quanh có thể bị thiệt hại tương tự. Ngày nay bác sĩ trị liệu hoàn toàn hiểu rõ liều tối đa áp dụng cho các mô bình thường, liều tối đa khác nhau mà khối u có thể chịu đựng. Khi sử dụng liều cần thiết để diệt các khối u sẽ tạo thiệt hại đáng kể cho các mô khỏe mạnh, vì vậy chúng sinh ra một giới hạn liều để bảo tồn khả năng tồn tại của chúng.

Để đạt được mục tiêu diệt tế bào ung thư tối đa mà không làm hại mô lành xung quanh và không làm tổn thương quá sâu, bác sĩ xạ trị liệu phải làm việc trên các phần chia nhỏ của bức xạ để chữa lành. Họ sẽ điều trị các khối u năm ngày một tuần trong vài tuần (2-7 tuần), họ cũng hoạt động trong môi trường bị ảnh hưởng bởi bức xạ, và đôi khi làm nhạy cảm các tế bào ung thư khi điều trị bằng thuốc bạch kim (fluoro-uracil).



8.2 Mô phỏng là gì (stimulation)?


Bác sĩ xạ trị, thiết lập một kế hoạch chính xác về liều tối đa áp dụng nạp cho các mô bình thường và liều tối ưu cần thiết để tiêu diệt các khối u. Các mô phỏng vi tính sẽ dựa trên khối lượng của khối u mà tính toán liều bức xạ được chuyển giao đến mỗi một phần của khối u và mô trên. Theo dõi đường được vẽ lên da với thuốc màu. Chúng phải được lưu giữ trong thời gian điều trị để tái sản xuất cùng một vị trí mô phỏng chế biến. Việc giải thích rõ ràng cần thời gian khoảng một giờ để mô phỏng.


8.3. Các tia xạ có nguy hiểm không?


Việc điều trị chiếu xạ là để chữa bệnh mà không gây ra thiệt hại nghiêm trọng và không thể đảo ngược trong các mô lành xung quanh. Trong khi bắt đầu xạ trị người ta nhận thấy rằng nếu bác sĩ cố gắng tiêu diệt tất cả tế bào khối u với một liều duy nhất của bức xạ thì các mô xung quanh cũng bị thương nặng. Điều trị phải được trải qua nhiều thời gian. Ba yếu tố được xét: tổng liều, liều dùng mỗi phiên, được gọi là phân đoạn và khoảng thời gian mà liều được phân phối đều đặn.


8.4 Xạ trị sẽ làm cháy da không?


Mỗi mô có giới hạn không được vượt quá liều. Tai nạn sẽ xảy ra nếu tổng liều quá cao, hay thời gian giữa các điều trị quá ngắn hoặc nếu liều lượng mỗi phiên quá nhiều. Tầm quan trọng và tỉ số các nguy cơ rủi ro được giảm nếu kỹ thuật xạ trị và theo dõi cẩn thận của bệnh nhân trong lúc và sau khi điều trị. Thêm vào đó bệnh nhân không cảm thấy đau đớn và không có cảm giác.
Liều lượng phải được dung hòa giữa sự mong muốn và nhu cầu tẩy da (irradier) bằng liều tối đa càng cao càng tốt với mục đích chính làm cơ hội tốt nhất để chữa trị chứ không phải để đe dọa các mô khỏe mạnh.
Da của thành ngực hoặc ngực (trong trường hợp cắt bỏ vú) có thể lang lỗ như "cháy nắng". Tác dụng phụ này sẽ hoàn toàn được hồi phục và tùy thuộc vào các loại kem theo toa của bác sĩ chuyên khoa bức xạ.



8.5. Sau bao nhiêu thời gian để chúng ta thấy sự điều trị có hiệu quả?


Hiệu quả của một khối u (tumor) không chỉ phụ thuộc vào thành phần xử lý mà là đặc điểm của khối u. Đó là lý do tại sao các quan sát lâm sàng của bệnh nhân là cần thiết. Thời gian giữa chiếu xạ (irradiation) và hiệu quả biến mất của tế bào ung thư không vượt quá một vài ngày cho khối u hoặc tế bào phân chia thường xuyên. Có thể có vài tuần hoặc vài tháng ở những vùng mà tỷ lệ tăng trưởng thấp.


8.6. Xin cho một số lời khuyên: để giảm thiểu tác dụng phụ của xạ trị là gì?


• Trước nhất là thông báo bác sĩ các loại thuốc bạn đang dùng trước khi bắt đầu điều trị và cung cấp danh sách những thuốc mà bạn đang dùng;
• Nghỉ ngơi và ngủ càng nhiều càng tốt bởi sự điều trị có thể gây mệt mỏi. Mệt mỏi này sẽ được cảm thấy trong một khoảng thời gian từ 4 đến 6 tuần sau khi hoàn thành xạ trị.
• Ăn không hạn chế để ngăn chặn giảm cân;
• Không rửa vùng nơi bị chiếu xạ, chỉ được phép rửa sạch một chút với nước ấm;
• Chung quanh khu vực chiếu xạ:
_ Không nên mặc quần quá chật chung quanh vùng bị chiếu xạ. Mặc quần áo dễ dàng cho việc cởi và có thể giặt hay vứt đi nếu được đề nghị và không nên mặc quần áo bằng len, nylon và đăng ten ở vùng điều trị,
_ Mặc một chiếc áo ngực mà không cột chặt (kim loại).
_ Tránh để ngực bạn phơi dưới ánh nắng mặt trời;
_ Không ủi áo quần có chất tinh bột.



8.7. Xạ trị (radiotherapie) có làm rụng tóc không? Nạn nhân sẽ bị nhiễm phóng xạ?


Chắc chắn là không.


8.8. Tôi có thể chọn lịch trình điều trị liệu pháp của tôi theo liệu pháp tia x?


Xạ trị ung thư vú đòi hỏi, theo quan tâm bệnh nhân, phải bỏ nhiều thì giời đến bệnh viện. Sự linh hoạt lịch trình luôn được xem là cần thiết trên một phần trách nhiệm của dịch vụ.


8.9. Tôi có thể tiếp tục hoạt động nghề nghiệp của tôi trong khi điều trị chăng? Làm thế nào tôi có thể đối phó với mệt mỏi?


Các phản ứng của bệnh nhân về việc tiếp tục hoạt động nghề nghiệp rất khác nhau không chỉ từ một bệnh nhân này qua bệnh nhân khác, nhưng ngay cùng một bệnh nhân qua nhiều quá trình khác nhau. Chúng ta có thể tiên đoán ai có phản ứng xấu hay tốt? Chúng ta có thể dự đoán được ai sẽ có khả năng theo đuổi các hoạt động chuyên nghiệp của họ? Câu trả lời là không.
Chúng tôi ghi nhận tổng quát về bệnh nhân để từ đó chúng tôi có thể làm sáng tỏ việc điều trị bằng một ngôn ngữ đơn giản, ít lo lắng và bị tổn thương hơn người khác, khi đó nhớ lại việc phóng xạ ở Nagasaki và Hiroshima. Một bệnh nhân, chỉ đối phó với tia vô hình không được yên tâm về những hậu ảnh hưởng của bức xạ vào sinh hoạt tình dục của họ, sự mệt mỏi có thể xảy ra trong quá trình điều trị, các thiết bị siêu công nghệ phải đối phó, v.v.v...có thể sẽ gặp khó khăn để đối phó với phương pháp điều trị này.
Xạ trị bằng quang tuyến có thể gây mệt mỏi một cách không rõ ràng lắm. Điều này có thể bắt nguồn từ vật chất bằng chứng là nó giảm nhiều hay ít hoạt động thể chất đòi hỏi bệnh nhân phải nghỉ ngơi nhiều hơn. Nhưng mệt mỏi cũng có thể biểu hiện qua việc khó tập trung trong vài tuần. Nó sẽ được xếp loại mệt mỏi tâm thần, do điều trị hoặc liên quan đến những điều kiện sau đây:
• Nhân cách của bệnh nhân, giáo dục, tuổi tác, gia đình và xã hội;
• Cảm giác tội lỗi;
• Khó khăn của việc sống trong nghi ngờ vì mối đe dọa ám ảnh vì không chắc chắn chữa lành bệnh;
• Không có khả năng hoặc khả năng hạn chế chấp nhận và thích ứng với tình hình;
• Mức độ nghiêm trọng của bệnh ung thư, bị cắt xéo hay không, có hoặc không có di chứng;
• Mất giá trị vì khiếm khuyết cơ thể theo quan điểm riêng của mình (hoặc của đối tác của cô) khi quyết định sinh tiết vú;
• Không chắc là còn có khả năng có con và cho con bú;
• v.v.v….
Tất cả những yếu tố này có thể đưa bệnh nhân dần dần đến thiếu tự tin, tự từ chối, từ chức, chán nản, thụ động, cô lập, hoặc thậm chí trầm cảm. Sự mệt mỏi thường trở nên trầm trọng hơn. Khả năng phục hồi không phải là vô hạn, vì bị căng thẳng nên nó bị giảm xút và kém thành công hơn. Đó là lý do nên khuyến khích giúp đỡ bệnh nhân trong việc phát triển các giá trị tràn đầy hy vọng và sự khẳng định của chính mình rằng sự hồi phục càng sớm càng tốt. Việc hoạt động trở lại theo khả năng của bệnh nhân ở thời điểm này và đặc biệt là với sự hỗ trợ từ những người khác (xem mục 10 với tiêu đề "Các trao đổi tình cảm có thể giúp giàu thêm cuộc sống tình cảm" trong sách "Tiếng nói của bình tĩnh để đáp ứng mối quan tâm).
Một cách tổng quát thì việc thích ứng được thực hiện với thăng trầm, thời gian bị mất và tìm lại sự tự tin. Khổng Tử đã viết:
Vinh quang của chúng tôi lớn nhất là không phải từ những gì chúng ta không bao giờ thất bại nhưng là những gì chúng ta đứng dậy sau mỗi cú ngã.
Trong số các yếu tố thuận lợi có thể ảnh hưởng thái độ tích cực của bệnh nhân  gồm:
• Tìm kiếm một sự hiểu biết tốt hơn về bệnh tình và tiềm năng các kỹ thuật tái tạo vú (kiến thức không phải là thuốc giải độc cho sự sợ hãi?)
• Các thói quen của bản thân và người chồng đã giúp hàn gắn vết sẹo bằng cách trò chuyện thường xuyên thân mật
• Tự tập nhấn mạnh các yếu tố xây dựng trong việc phục hồi như sự trìu mến, sự yêu thương chăm sóc của gia đình và khả năng chuyên môn của đội ngũ y tế  sức khỏe 
• Từ chối lòng thương hại, mất ý chí sống, biết đau khổ về thể chất và tinh thần;
• v.v.v….
Quyết định tiếp tục, giảm hoặc ngừng việc phục hồi, hoạt động chuyên nghiệp vụ thuộc vào bệnh nhân với sự hỗ trợ của thầy thuốc.


9. Hóa trị (chimiothérapie)
9.1. Hóa trị là gì?

Khi có di căn, bác sĩ sẽ sử dụng một dụng cụ quan trọng là hóa trị. Dụng cụ này gồm việc quản lý thuốc riêng biệt hay kết hợp, có khả năng phá hoại sự sinh sản tế bào từ vùng tập trung đầu tiên và từ di căn.

Dụng cụ thứ ba để chống lại ung thư xuất hiện sau Thế Chiến thứ hai. Nó được dùng để chửa bệnh ung thư hay nhiễm hóa, chẳng hạn như các bệnh ung thư vú không thể chữa khỏi bằng điều trị địa phương (phẫu thuật, xạ trị).
Hóa trị có thể sử dụng để điều trị chữa bệnh khối u nguyên phát và vi di căn để ngăn chặn sự bành trướng di căn, giảm tốc độ tăng trưởng hoặc giảm kích thước của khối u trước khi phẫu thuật và điều trị bằng vô tuyến.
Nếu dễ dàng để tìm sản phẩm để hoạt động kháng u thì việc dùng sản phẩm ấy lại càng khó khăn hơn để tránh vi phạm mô khỏe mạnh. Sự khó khăn này trên thực tế được tăng cường bởi nếu liều hóa trị được tăng lên, hiệu quả điều trị sẽ tăng lên theo tỷ lệ tương tự gây ra độc tính về các mô bình thường khỏe mạnh. Hóa trị sẽ không được chọn lựa.
Với một số lượng rất lớn hợp chất được kiểm tra (150.000, năm 1950), hàng chục ngàn sản phẩm được lựa chọn để được thử nghiệm khối u trên chuột. Kết quả thật nhỏ hoặc các hoạt động chống khối u là không đủ, hoặc gây độc tính cho mô khỏe mạnh. Nhưng nó cho phép chúng ta hiểu được cơ chế tác dụng của thuốc. Tổng cộng năm mươi loại thuốc hóa trị liệu tích cực phụ thuộc vào thành phần hóa học khác nhau đã được lựa chọn.
Tuy nhiên trước khi quản lý một dược phẩm hoạt động, chúng ta phải học cách xử lý nghĩa là xác định liều lượng tối đa, đo hoạt động chống khối u (hiệu quả, độc tính), tốc độ quản lý, so sánh với các loại thuốc nổi tiếng nhất, vv. Tất cả những phát triển luôn luôn đòi hỏi rất nhiều thời gian. Nếu chúng có thể chứng minh sự kéo dài sự sống của bệnh nhân hoặc cải thiện chất lượng cuộc sống tốt nhất thì thuốc gây độc cho tế bào này được ghép vào kho dược khí dành cho hóa trị liệu.


9.2. Chị gái tôi giải phẫu ung thư vú. Tuy nhiên cô ấy không trải qua hoá trị máu trong khi tôi sẽ phải trải qua. Tại sao có sự khác biệt như thế trong cách điều trị của tôi và chị tôi?

Ung thư không phải tất cả tiến triển cùng tốc độ, có thể hiểu là thời gian tăng gấp đôi cho mỗi khối u.

Nếu chúng ta dùng kết quả của phần đầu 1.6, chúng ta thấy bệnh ung thư với thời gian tăng gấp đôi cứ mỗi 100 ngày và sẽ sinh sản 1.000.000 tế bào (bằng 1 mg và dung tích 1 mm3) sau năm thứ năm, như vậy phát triển 5 lần tăng gấp đôi liên tiếp. Nó sẽ đạt 1 tỷ tế bào (hoặc trọng lượng của một gram và khối lượng 1cm3) sau hai năm rưỡi nữa tức gấp ba mươi lần tăng gấp đôi kế tiếp. Đây là giai đoạn khi khối u sẽ được lâm sàng phát hiện. Khi nó sẽ đạt một nghìn tỉ tế bào (gấp bốn mươi lần tăng gấp đôi thì khối u xâm nhập vào khu vực chết và như vậy ung thư đã già, mười năm từ khi sự xuất hiện các tế bào ung thư lần đầu sinh ra. Trong ba phần tư sự tồn tại ung thư sẽ được phát triển 1 cách im lặng, ẩn nấp vì không thể hiện bằng dấu hiệu, sẽ được phát hiện sau bảy năm rưởi tồn tại.
Những ung thư khác có thể phát triển trong một thời gian tăng trưởng ngắn và dài hơn, tốc độ tăng trưởng nhanh hoặc chậm hơn, với dạng lớn hoặc nhỏ hơn và do đó sự di căn kém hay quan trọng hơn.
Hơn nữa cần nhấn mạnh rằng cùng một loại ung thư trong hai bệnh nhân khác nhau sự phát triển sẽ không như nhau. Ung thư vú có thể được phát hiện bởi chụp nhũ ảnh thường hoặc bằng sự bắt mạch một nhân ác tính. Sự chụp hình vú khi khối u khoảng 3-4 mm trong khi sự sờ nắn chỉ phát hiện khối u lúc 8-10 mm. Một khối u 3-4 mm phát triển nơi mà tế bào đầu tiên ung thư hiện ra, thường không đến được các tuyến vú nhỏ (vaisseaux) và không chuyển các tế bào ung thư qua sự di chuyển máu. Được gọi là chưa di căn. Trong khi một khối u 8-10 mm có thể đưa các tế bào ung thư lan rộng hơn để xâm chiếm các cơ quan khác dưới hình thức di căn vi. Cách điều trị tùy chọn sẽ rất khác nhau trong trường hợp thứ hai, tính chất xâm lấn nhiều hơn với khả năng bành trướng rộng bệnh ung thư này.

9.3 Loại thuốc chính nào sẽ được sử dụng?

Chúng tôi kể ra đây một số thuốc chống độc tế bào (có mặt trên thị trường Bỉ) và thời điểm sản xuất:

Methotrexate (1948), Actinomycin D (1952), 5 fluoro-uracil ® (1957), cyclophosphamide ® (1958), bleomycin (1962), adriamycin (1973) trích xuất từ bạch kim (1976), Taxol ® (1989).
Việc lựa chọn thuốc, một thứ hoặc kết hợp tùy thuộc vào loại khối u, tốc độ tăng trưởng và phân loại của nó trong quy mô của sức hấp dẫn, trong khi liều thuốc tùy thuộc vào trọng lượng và kích thước của bệnh nhân.
Kết hợp thuốc được dùng rất phổ biến nhất là:
• AC - adriamycin (doxorubicin) và cyclophosphamide (Andoxan ®)
• AT - adriamycin và Taxol ® hoặc Taxotere ® và adriamycin
• EMF - cyclophosphamide, methotrexate và fluorouracil ® ("5-FU" hoặc 5-fluorouracil ®)
• CAF - cyclophosphamide ®, adriamycin ® và fluorouracil ("5-FU" hoặc 5-fluorouracil ®)
• CEF - cyclophosphamide ®, epirubicin (gần với Adriamyycine) ® và fluorouracil ("5-FU" hoặc 5-fluorouracil ®)
• FAC - fluorouracil ® ("5-FU" hoặc 5-fluorouracil ®), cyclophosphamide và Adriamycine ®.

• FEC - fluorouracil ®, cyclophosphamide và Epicubicine ®.

9.4. Tại sao dùng sự kết hợp nhiều loại thuốc?

Khối u ác tính không đồng nhất, có nghĩa là chúng có các dòng tế bào với đặc điểm sinh học khác nhau trong quá trình phát triển. Các tế bào ban đầu nhạy cảm với một loại thuốc có thể tế bào thế hệ sau lại kháng thuốc. Lấy kinh nghiệm học được từ cách dùng trụ sinh trong điều trị các bệnh truyền nhiễm vào cuối những năm sáu mươi, đã được khám phá thành công ảnh hưởng của việc dùng độc cho tế bào (cytotoxiques). Kết quả là việc sử dụng nhiều loại thuốc cùng một lúc mà không có kháng chéo (résistance croisée), do đó các tế bào kháng một loại thuốc sẽ dễ bị tổn thương bởi thuốc khác. Chiến lược này là nguồn gốc thành công ban đầu của hóa trị máu.

Ngoài ra sự hóa trị máu được biết từ kinh nghiệm sẽ không có thể bị khép vào quy tắc cứng nhắc mà phải phát triển để được điều chỉnh tùy thuộc vào phản ứng của khối u và mô khỏe mạnh. 

9.5  Port A Cath là gì?

Khi điều trị đòi hỏi một kế hoạch xử lý các loại thuốc và sự tiêm chích vào hệ thống tĩnh mạch, việc tiêm bằng kim lặp đi lặp lại trong các mạch gần da có thể gây ra vấn đề: việc tiêm có thể gây đau, các tĩnh mạch có thể bị hỏng sau khi tiêm lặp đi lặp lại, các tĩnh mạch có thể "trượt" và vượt khỏi nơi mũi kim chích. Để khắc phục những khuyết điểm về việc tiêm chích trong phòng kính được phát triển. Hộp tiêm chích thường được gọi theo tên thương mại là "Port A Cath" (CAP), bao gồm một hộp cực nhỏ bằng kim loại với một nắp đóng bởi một màng silicon và một ống mỏng, dẻo (ống thông) được đặt với một đầu tĩnh mạch và đầu kia gắn liền với phòng kim loại.

Các Port-A-Cath được đặt dưới da, thường ở một nơi dễ dàng di chuyển, trong ngực hoặc trên ngực. Vị trí hộp cực nhỏ sẽ được đặt bởi bác sĩ phẫu thuật gây tê tại chỗ cần được theo dõi vài giờ. Nếu không có phần nào của PAC nổi lên thì bệnh nhân có thể vào bồn tắm và vòi tắm mà không có vấn đề gì.

Các sản phẩm được tiêm chích vào máu thông qua hộp PAC, chỉ cần qua da với kim tiêm để thông qua hộp PAC. Hoạt động này phải luôn được khử trùng. Sự hiện diện của hộp PAC cải thiện đáng kể cho bệnh nhân trong quá trình quản lý các loại thuốc tiêm, sản phẩm tiêm vào máu và thuốc dinh dưỡng hoặc việc trích máu thường kỳ làm tổn hại mạch máu.

9.6. Một hóa trị (chimiothérapie) sẽ thực hiện ra sao?

Việc lựa chọn và sử dụng các loại thuốc một cách liên tục hoặc từng kỳ theo liều lượng và cách xử lý sẽ được đảm nhiệm và quyết định bởi bác sĩ chuyên khoa cho mỗi bệnh nhân, sau khi kiểm tra máu phải thể hiện một cách bình thường các tế bào bạch huyết và tiểu cầu cũng như chức năng gan và thận tốt.

Quản lý các loại thuốc có thể thực hiện tại bệnh viện ban ngày, trong xe cứu thương hoặc nằm viện vài ngày theo yêu cầu bệnh nhân. Chu kỳ trở lại bệnh viện sẽ được thông báo từ bác sĩ điều trị.
Thông thường thuốc được tiêm tĩnh mạch ở tay hoặc cánh tay hay dùng Port-A-Cath. Bệnh nhân cũng có thể được tiêm ở bắp thịt hoặc dưới da. Bác sỹ có thể cho thuốc uống qua miệng.
Việc tiêm tĩnh mạch có thể được thực hiện liên tục hoặc từng khoảng cách (thuốc được pha loãng trong một lượng lớn chất lỏng) 2-3 giờ mỗi hai, ba hoặc bốn tuần hoặc tiếp tục điều trị 3-5 ngày mỗi ba tuần.


9.7. Tại sao việc dùng hóa trị có thể làm bệnh tái phát?

Hai sự kiện đang được xem xét.

Việc đầu tiên: các tế bào ung thư sản xuất nhiều hơn và khả năng chống vi khuẩn hóa trị máu như chống lại trụ sinh. Quản lý thuốc giữa thời gian chống khối u và thuốc chống tế bào ung thư sẽ bắt đầu biểu hiện sức đề kháng dược phẩm, là lúc mà xạ trị máu giai vai trò quan trọng "đánh cú mạnh" hoặc mất đi  sự hiệu nghiệm dược phẩm và thành lập lại tính đề kháng. Vì những tế bào và  khối đã trở thành “chai đá “ với dược phẩm nên bệnh tình lại tái phát bằng các quan sát vài tháng hoặc vài năm sau khi ra khỏi viện.
Việc thứ hai: để được hoạt động, liều dùng phải đủ mạnh sẽ tăng độc tính đến các mô bình thường đặc biệt là những tế bào sinh sản nhanh chóng như tủy xương sản xuất tế bào máu, màng nhầy tiêu hóa (muqueuses digestives) và tóc. Do đó phải liều lượng thích hợp cho mỗi bệnh nhân bằng cách cân nhắc giữa liều thuốc tốt và độc tính chống mô khỏe mạnh. Độc tính này không phải nhẹ nhưng có tính chất thay đổi từ một loại thuốc này qua thuốc khác và từ một bệnh nhân qua bệnh nhân khác và có thể bị đảo ngược (xem Bảng 1 và thuyết minh đính kèm).

9.8 Tác dụng phụ có hiệu lực bao lâu?

Các tác dụng phụ sẽ tan mất sớm hay muộn khi việc điều trị kết thúc. Ảnh hưởng buồn nôn và ói mửa kéo dài một vài giờ đến vài ngày sau khi dùng thuốc trong khi người khác bị mệt mỏi và rụng tóc cần nhiều thời gian để phục hồi.

Thời gian cần thiết để biến mất tác dụng phụ thay đổi từ người này sang người khác và tùy thuộc vào điều kiện sức khỏe và loại thuốc dùng.
Về vấn đề này các bạn nên yên tâm vì nên biết rằng y học ngày nay vẫn tiếp tục thực hiện tiến bộ lớn trong việc phòng ngừa và điều trị tác dụng phụ nghiêm trọng của hóa trị máu.


9.9. Tại sao tôi cần khám nghiệm máu trước mỗi hóa trị (chimiotherapie)?

Các tế bào tạo ra bởi tủy xương (tế bào bạch huyết cầu, hồng huyết cầu và tiểu cầu) bị ảnh hưởng bởi hóa trị máu. Để hiểu rõ sự cần thiết xét nghiệm máu trước  mỗi hóa trị máu, chúng ta cần biết vai trò của các thành phần máu:

• Các tế bào bạch huyết cầu có nhiệm vụ chống nhiễm trùng. Nếu số lượng đang giảm dần do hậu quả của thuốc chống ung thư, bệnh nhân sẽ dễ bị nhiễm trùng;
• Các tế bào hồng huyết cầu mang oxy đến tất cả các phần của cơ thể. Sự sụt giảm đáng kể các tế bào hồng huyết cầu sẽ tạo ra vấn đề thiếu máu và gây ra mệt mỏi cùng cực;
• Tiểu cầu bảo đãm sự đông máu. Số lượng tiểu cầu quá thấp ở một mức độ có thể gây chảy máu không ngừng.
Để tủy xương đền bù cho sự mất mát các thành phần máu bị ảnh hưởng bởi việc chống khối u phải mất khoảng 21 ngày sau hóa trị máu, thời gian cần thiết để các thành phần máu trở lại mức chấp nhận. Các xét nghiệm máu được thực hiện trước mỗi phiên hóa trị máu để kiểm soát các thành phần máu. Có thể bạn phản ứng mạnh về việc điều trị và cần thêm vài ngày để được kết quả tốt hơn.


9.10. Những bất lợi (tác dụng phụ) gì gây ra do việc hóa trị?

Tế bào ung thư phát triển và tự phân tán nhanh hơn tế bào bình thường, chẳng hạn như thuốc chống ung thư được chế tạo để tiêu diệt các tế bào phát triển nhanh chóng và một số tế bào khỏe mạnh tăng trưởng một cách nhanh chóng. Những tế bào này có thể bị ảnh hưởng bởi hóa trị và gây nên tác dụng phụ.

Tác dụng phụ thông thường phụ thuộc vào loại thuốc sử dụng, một thứ hoặc kết hợp nhiều thứ, trên cùng một bệnh nhân, thái độ đối với căn bệnh và việc điều trị. Khi chúng ta biết thái độ lạc quan sẽ giúp bệnh nhân chấp nhận điều trị hiệu quả hơn và các hiệu ứng độc hại khó trị và còn chịu được liều mạnh hơn, và thái độ này sẽ là một lợi điểm quan trọng giúp bệnh nhân tỉnh táo hơn để đối phó với các vấn đề trong thời gian khó khăn. Có thể thái độ tích cực của bệnh nhân là điều cần thiết giúp tinh thần họ mạnh nhất. Sự việc này làm tăng thêm sự thèm sống và  mãn nguyện ở từng thời điểm và từng ngày. Năng lượng không th kéo dài thời gian mà nó sẽ tăng thêm giá trị.

Tế bào khỏe phát triển nhanh chóng - có nhiều khả năng bị ảnh hưởng bởi các loại thuốc chống ung thư - là những tế bào của đường tiêu hóa (miệng, họng, thực quản, dạ dày, ruột), các tế bào máu hình thành trong tế bào tủy xương, tế bào của hệ thống sinh sản và tóc.

Sự  nôn mửa sinh ra bởi việc ăn không tiêu, dị ứng với vài thực phẩm, chán ăn, buồn nôn, loét miệng (niêm mạc / viêm miệng), tiêu chảy, táo bón.
Rối loạn trong thành phần của tủy xương là nguyên nhân của sự sụt giảm số lượng tế bào máu (thiếu máu bất sản) và giảm lượng tế bạch huyết cầu, giảm lượng tiểu cầu, giảm lượng tế bào hồng huyết cầu (thiếu máu).
Có thể có tác dụng phụ trễ trên cơ quan tình dục (xem Phần 9.20) như giảm khả năng sinh sản nơi đàn ông (không phải bất lực) hoặc ở phụ nữ mãn kinh.

Sự rụng lông trên cơ thể và rụng tóc, thay đổi trạng thái tổng quát như yếu ớt, mệt mỏi, giảm cân, tăng cân, vấn đề về da như ban đỏ hoặc phát ban, da tăng sắc tố, tĩnh mạch, móng tay, kị ánh sáng, tăng sừng (hyperkeratse), đỏ, phát ban như "mụn", loét, ngứa, v.v.v… không bao giờ nên xem nhẹ và vấn đề thuộc về trách nhiệm nhân viên y khoa.

9.11. Hóa trị có thể làm gì đ tránh khỏi ảnh hưởng phụ đến sự sinh trưởng máu?

Để chống lại sự sụt giảm lượng thành phần tạo ra máu như hồng huyết cầu, bạch huyết cầu và tiểu cầu, người ta nghĩ rằng có thể kéo dài thời gian giữa các điều trị với mục đích cho những tế bào này đủ thời gian cần thiết lấy lại mức sinh sản chấp nhận. Tuy nhiên thuốc chống ung thư trong cơ thể chỉ có hiu quả được và vài giờ ch không bằng ngày và trong thời gian ấy khối u sẽ có đủ thời giờ để hồi phục.

Một lời khuyên khác là nên giảm liều thuốc đang dùng nhưng kết quả điều trị sẽ kém hiệu quả.

Có cần đến những biện pháp khắc phục mà các chuyên gia hóa trị máu đã có sẵn?

Nếu tỉ lệ bạch huyết cầu giảm xuống quá thấp việc bảo vệ cơ thể chống lại nhiễm trùng có thể bị tổn hại.

Nhiễm trùng là tình trạng cơ thể con người hay sinh vật bị xâm lược bởi vi khun có khả năng sinh sản nhanh chóng trong điều kiện thuận lợi và gây tổn thương các tế bào. Sự suy giảm tế bào bạch huyết cầu gây nguy hiểm. Trong trường hợp này bác sĩ sẽ đối phó với các phân tử (yếu tố tăng trưởng kích thích và sự hình thành của tế bào bạch huyết cầu và phục hồi nhanh chóng với tốc độ chấp nhận). Nếu tế bào hồng huyết cầu bị giảm đáng kể sẽ dẫn đến thiếu máu bác sĩ sẽ sử dụng kỹ thuật truyền máu hoặc điều trị với érythropoiétine (một chất kích thích sản xuất hồng huyết cầu) (xem mục 9.14). Tương t nếu số lượng tiểu cầu giảm xuống quá thấp có thể đòi hỏi tiếp thêm tiểu cầu để ngăn chảy máu liên tục (xem mục 9.13).

9.12. Những gì tôi có thể làm để ngăn chặn nguy cơ nhiễm trùng?

Nếu tỷ lệ của các bạch huyết cầu giảm xuống quá thấp, bạn có thể đóng góp bằng những nỗ lực hợp tác trong việc khôi phục lại bình thường, hoặc ít nhất làm gia tăng nguy cơ của nó. Vì vậy bạn có thể nghĩ ra cách ngăn chặn hoặc cố gắng tẩy trùng do vi khuẩn hay hệ miễn dịch bị suy yếu để đối phó. Các nơi bị nhiễm trùng có thể xảy ra bất cứ nơi nào trên cơ thể bao gồm miệng, da, phổi, đường tiểu, trực tràng, bộ phận sinh dục, v.v.v….

Cố gắng duy trì tình trạng dinh dưỡng tốt nhất với lượng đầy đủ lượng calorie và thành phần dinh dưỡng cân bằng bao gồm:
- Trái cây và rau quả;

_ Gia cầm, cá và thịt;
_ Ngũ cốc và bánh mì;
_ Sản phẩm từ sữa;
• Hãy chú ý đến việc bảo tồn sức lực:
_ Bằng cách dành thời gian nghỉ ngơi và ngủ nhiều;
_ Bằng cách lựa chọn một lối sống thích nghi với sức khỏe hiện tại của bạn;
_ Tránh cảm lạnh;
• Tránh tiếp xúc với nguồn có khả năng nhiễm trùng.
Chúng bao gồm:
_ Những người có bệnh truyền nhiễm - nhiễm trùng vi khuẩn, ghẻ lở (herpès), zona, lạnh, cảm cúm, thủy đậu, sởi, viêm gan);

_ Những người đã được tiêm phòng bại liệt gần đây như bệnh sởi, quai bị và rubella, tránh các đám đông nói chung;
_ Bài tiết của mèo, chó, gia cầm. Không nên lau lồng chim, mèo, và nơi có phân chó (phân có chứa rất nhiều nấm và vi khuẩn);
_ Rau sống, hoa và cây nhà (đặc biệt là khi các tế bào bạch huyết cầu trong máu đạt 1000/mm3 hoặc ít hơn);

_ Ăn thịt xay và không ăn hải sản như trai sò, tôm, tôm hùm, hàu, cua;
_ Trái cây chưa gọt vỏ, rau sống, trứng tươi, sữa sô cô la hoặc sản phẩm từ sữa làm trong máy trộn không rửa sạch;
_ Tất cả nguồn nước đọng, bao gồm nước từ bình hoa, nước xúc miệng, các thiết bị hô hấp, bát xà phòng và xà bông lỏng. Để giảm sự phát triển của vi khuẩn trong nước ứ đọng, bạn có thể:
_ Thêm một muỗng cà phê thuốc tẩy vào bình hoa;
- Thêm một muỗng cà phê giấm vào các thiết bị hô hấp;
- Sử dụng xà bông bột hoặc bánh xà phòng;
• Rửa tay thường xuyên bằng xà bông bột hoặc bánh xà phòng (paillettes) và chà xát mạnh
- Ưu tiên trước khi ăn
- Sau khi sử dụng nhà vệ sinh;

• Hỏi bác sĩ về tiêm chủng mỗi năm (bao gồm cả chủng ngừa cúm);
• Hãy chú ý đến các dấu hiệu nhiễm trùng:

- Kiểm tra nhiệt độ qua miệng nếu bạn cảm thấy sốt;
- Liên lạc với bác sĩ nếu nhiệt độ trên 38 ° C trong cùng lúc với ớn lạnh;
- Liên lạc với bác sĩ nếu dấu hiệu nhiễm trùng xuất hiện;
- Duy trì làn da và niêm mạc;
- Bạn hay thường xuyên lo ngại việc chăm sóc cẩn thận vệ sinh cá nhân. Dùng nước nóng (không đun sôi) với xà phòng nhẹ, rửa sạch và lau da bằng khăn mềm. Làm sạch vùng hậu môn sau mỗi lần đi cầu bằng cách cẩn thận rửa và làm khô toàn bộ bề mặt. Khám bác sĩ nếu bạn có bệnh trĩ. Hãy cảnh giác với các khu vực có thể vi trùng: dưới vú, nách, giữa hai chân;
- Thường xuyên và sử dụng nhiều chất bôi trơn hòa tan trong nước để ngăn ngừa da khô;
- Giữ cho móng tay và móng chân sạch sẽ và cắt ngay ngắn;
- Không cắt hoặc xé lớp biểu bì của móng tay;
- Hãy cẩn thận không để cắt hoặc làm tổn thương bản thân bạn khi bạn sử dụng kéo, kim tiêm hoặc dao;
- Sử dụng dao cạo điện và tránh việc sử dụng dao cạo bằng tay;
- Sử dụng loại kem thuốc làm rụng lông và tránh việc sử dụng các thuốc làm rụng lông;
- Sử dụng bàn chải mềm để tránh tổn thương cho nướu;
- Không nên đè hay nặng mụn;
- Sử dụng kem hoặc dầu để làm mềm da khi nó trở nên quá khô hoặc nứt nẻ;
- Sử dụng vật liệu mịn màn để ngăn chặn ma sát quá mức trong quan hệ tình dục. Tránh tình dục bằng miệng hay hậu môn.
- Làm sạch vết thương và vết xước bằng nước nóng, xà phòng và dùng chất sát khuẩn;
- Mang găng tay khi làm vườn hay hốt phân/cứt động vật;
- Tránh bị tổn thương hậu môn bằng cách tránh dùng máy lau chùi, nhiệt kế và thuốc nhét hậu môn (suppositoire). Uống thuốc hàng ngày nếu cần để làm mềm phân;
- Không dùng bất cứ loại thuốc mà không có phép của bác sĩ;
- Lập tức báo ngay bác sĩ bất kỳ dị ứng (ngứa, mẩn đỏ, phát ban);
- Sử dụng nhiều kem tránh nắng (crème solaire) trong trường hợp phơi dưới ánh nắng mặt trời. Khi sử dụng một số loại thuốc chống nắng bị nghiêm cấm bạn nên tham khảo ý kiến ​​bác sĩ về việc này.

Nguyên nhân của hầu hết các nhiễm trùng được biết đến thường đến từ các vi khuẩn từ da, ruột và bộ phận sinh dục. Điều quan trọng phải cảnh giác với bất kỳ dấu hiệu cho thấy bị nhiễm trùng vì ngay khi chúng ta theo lời khuyên bác sĩ nhưng vẫn có thể bị nhiễm trùng. Do đó đề nghị chú ý đặc biệt các bộ phận nhạy cảm như mắt, mũi, miệng, bộ phận sinh dục và vùng hậu môn.
Nhiễm trùng có thể có các triệu chứng - một cơn sốt vượt quá 38 ° C;

-  Ớn lạnh;

-  Mồ hôi;
-  Một cảm giác nóng rát khi đi tiểu;
-  Ho nhiều hoặc đau họng dai dẳng;
-  Ngứa âm đạo hoặc chảy nước bất thường ;

-  Da bị đỏ, sưng hoặc đau, đặc biệt xung quanh vết thương, chỗ đau hoặc tĩnh mạch.

Nếu bất cứ dấu hiệu nhiễm trùng xuất hiện, bạn lập tức thông báo bác sĩ. Lời khuyên đặc biệt này quan trọng khi số lượng bạch huyết cầu thấp (thường là 7 đến 15 ngày sau khi nhận xạ trị máu). Nếu nhiệt độ bằng hoặc trên 38 ° C hãy kiểm tra bạch huyết cầu bởi bác sĩ ngay trong ngày hoặc vào trung tâm ung thư lập tức. Bạn chịu được trụ sinh thì sự hiệu nghiệm sẽ giúp bạn không bị biến chứng.

9. 13. Có biện pháp phòng ngừa nào để tránh chảy máu?


Khi giảm lượng tiểu cầu thì s đông máu có thể bị ảnh hưởng. Nên báo bác sĩ nếu bạn nhận thấy bầm tím hay điểm nhỏ màu đỏ dưới da, nước tiểu màu đỏ hoặc hơi hồng, phân có màu đen hoặc gớm máu. Chảy máu kéo dài ở nướu hoặc mũi cần được báo cáo.

Lời khuyên để ngăn chặn chảy máu và vết bầm tím, v.v.v. :
* Giữ da hoàn toàn tốt như:

-            Tránh các môn thể thao quá bạo lực hoặc các hoạt động có thể làm bạn tổn thương cơ thể ;
-            Sử dụng dao cạo điện;
-            Tránh mặc quần áo quá chật làm bằng vải thô;
-            Hãy cẩn thận không cắt đứt da khi sử dụng kéo, kim nhọn, dao hay các dụng cụ;
-         Hãy cẩn thận tránh bổng tay khi ủi hoặc nấu ăn. Đeo găng tay khi sử dụng lò nướng;
-            Đối với móng tay hãy sử dụng giấy nhám (cây dũa nhám) hoặc dũa móng tay mềm;
* Giữ màng nhầy (membrane muqueuse) nguyên vẹn bằng cách:
-            Ăn thức ăn mềm ít hoặc không có gia vị, tránh ăn thức ăn khó tiêu quá nóng và nhiều chất hóa học;
-            Thoa môi với ca cao bơ hoặc vaseline;
-     Tránh bị sâu răng bằng cách dùng bàn chải mềm và súc miệng thường xuyên, sử dụng kem đánh răng với hàm lượng cồn thấp;
-     Chăm sóc kỹ răng với sự đng y của xạ trị gia về ung thư;
* Giữ an toàn màng nhầy hệ thống tiêu hóa như:
-     Cẩn thận giữ uống đủ lượng nước để tránh táo bón;
-    Tránh dùng dụng cụ cho trực tràng, dùng thuốc nhét hậu môn (suppositoire), thuốc nhuận trường quá mạnh và sử dụng nhiệt kế trực tràng;

* Duy trì toàn vẹn màng nhầy của hệ thống hô hấp như:

-     Đừng xì mũi quá mạnh, nên xì cả hai lỗ mũi cùng lúc;

-      Không khí thật ẩm trong phòng;


-     Nếu bị chảy máu bốp mũi lại dọc theo sống mũi. Nếu vẫn còn chảy máu sau vài phút đặt một vài miếng nước đá trên mũi và trên cổ kéo dài. Nếu vẫn không ngừng, cho bác sĩ biết;

* Giữ an toàn màng nhầy hệ thống sinh dục như:
-     Uống nước ít nhất ba lít một ngày, trừ khi bạn bị cấm, 
-     Tránh sử dụng các ống thông dẫn, kim phun và thuốc nhét âm đạo;
-     Sử dụng chất bôi trơn khi quan hệ tình dục;
* Tránh gia tăng áp lực não khi số lượng tiểu cầu ít hơn 20.000/mm3; vì thế nên:
-     Tránh hoạt động mạnh mẽ;
-     Tránh uốn cong về phía trước và nâng vật nặng;
* Không uống rượu trừ khi có chỉ dẫn của bác sĩ;
* Không dùng bất cứ loại thuốc mà không có phép bác sĩ.
Tránh dùng ASPIRINE ® (acetylsalicylic acid) hay dược phẩm triết từ chất này (ví dụ như Alka SEILTZER ®, ASPEGIC ®, Aspro ®, ANTIGRIPPINE ®, antipyrine ®, DISPRIL ®, DOLVIRAN ®, Perdolan ®, SEDERGINE ®, VEGANINE ®, ..).

Ngược lại bạn chỉ nên dùng các loại thuốc có chứa paracetamol như PANADOL ®, Dafalgan ®, Efferalgan ®, DOLPRONE ®, ....
Thông báo bác sĩ bạn khi dùng bất kỳ thuốc chống đông máu như Sintron ® ... và bất kỳ điều trị làm loãng máu (Persantine ®, ...).



9.14. Tại sao tôi hay bị mệt mỏi, tôi phải làm gì để chống lại sự kiệt sức?


Hãy nhớ rằng các tế bào hồng huyết cầu mang oxy cần thiết cho hoạt động bình thường của các mô trong cả cơ thể. Xạ trị thường xuyên sẽ gây cản trở sự đổi mới tế bào hồng huyết cầu trong tủy xương. Nếu lượng hồng huyết cầu và đặc biệt là tỷ lệ nội dung - hémoglobine - dưới mức bình thường, bệnh nhân sẽ bị thiếu máu và bệnh nhân có thể cảm thấy yếu ớt, khó thở và mệt mỏi một cách nhanh chóng. Đối với những bệnh nhân này, quản lý lượng érythropoietine (EPO theo toa của bác sĩ) sẽ chữa trị việc thiếu hồng huyết cầu trong nhiều trường hợp bệnh nhân tránh mệt mỏi và chịu đựng điều trị tốt và lâu hơn.
Lời khuyên để tránh sự mệt mỏi
• Nghỉ ngơi thật nhiều. Ngủ lâu hơn và có những giấc ngủ ngắn thường xuyên trong ngày, buổi tối nên đi ngủ sớm;

• Hạn chế hoạt động của bạn - chỉ làm những điều quan trọng nhất đối với bạn;
• Không ngại yêu cầu giúp đỡ khi cần. Trông con cái, mua sắm, v.v.v…;
• Một chế độ ăn uống cân bằng (cá, rau, trứng, thịt đỏ);
• Ngồi hoặc nằm từ từ để ngăn cản chóng mặt;
• Sử dụng kỹ thuật thư giãn.

Bạn không nên tưởng tượng rằng sự mệt mỏi là nguyên nhân sự tăng trưởng khối u của bạn hoặc tăng sự phân tán của các di căn trong cơ thể, khi sự điều trị kết thúc thì mệt mỏi sẽ biến mất dần dần. Để hiểu rõ hơn bạn nên tham khảo với bác sĩ hoặc vào trang www.fatigue.be

9.15. Tôi biếng ăn và giảm cân dần dần trong khi trải qua những mệt mỏi và đôi khi sốt. Tôi cảm thấy trạng thái này như là một dấu hiệu tiến triển của bệnh. Tôi đúng hay sai và phải làm gì?

Thiếu sự thèm ăn thường là kinh nghiệm đau đớn của bệnh nhân. Nhiều dược sĩ  đề nghị bệnh nhân để kích thích sự thèm ăn nhưng kém hiệu quả. Nhưng có hai sản phẩm có ích: progestérone với lượng cao cũng được sử dụng như nội tiết tố cho một số bệnh ung thư, không chỉ cho vú và dư
ợc phẫm triết từ cortisone, nên cân nhắc kỹ những lợi và bất lợi. Bất kỳ sự điều trị nào để kích thích sự thèm ăn phải được quy định của thầy thuốc.


9.16. Làm gì để vượt qua những tác dụng phụ liên quan đến buồn nôn và ói mửa?



Buồn nôn và ói mửa có thể xảy ra trong các hình thức cấp tính hoặc các ngày uống thuốc, tác dụng phụ thường xuyên là niềm lo sợ của bệnh nhân. Cần biết rằng các vấn đề tiêu hóa ảnh hưởng đến nhiều người, tuy nhiên chúng xảy ra khác nhau từ người này sang người khác và từ một loại thuốc này qua thuốc khác tùy thuộc vào lượng thuốc, chu kỳ và cách uống. Có người chưa bao giờ bị ói mửa và buồn nôn. Những người khác lúc nào cũng cảm thấy buồn nôn, trong khi những người khác bị nôn hạn chế trong thời gian ngắn hay sau khi điều trị.

Một khía cạnh đáng ngại của những hiện tượng này là bệnh nhân thường được phát hiện ngay khi có tác dụng phụ từ xạ trị đầu tiên. Những hiện tượng tâm thần dự đoán có thể đưa đến tỷ lệ báo động và đôi khi phải dừng điều trị. Một số bệnh nhân từ chối theo đuổi xạ trị và phải sống với nổi khổ dai dẳng.
Có những loại thuốc gọi là thuốc chống nôn, trong đó gần như chữa trị được chứng buồn nôn và ói mửa. Ngày nay, tỷ lệ thành công khoảng 60 đến 80% thu thập từ cách bệnh nhân và các loại thuốc gây độc tế bào. Trong số những thuốc nổi tiếng chống nôn gồm có: metoclopramide (Primperan ®), ondansetron (Zofran ®), granisetron (Kytril ®), tropisetron (Novoban ®) tức là domperidone (Motilium ®), metopimazine (Vogalene ®), haloperidol (HALDOL ®) và promethazine (Phenergan ®).


Các phân tử khác đã được công bố và chúng ta nghĩ  rằng việc nghiên cứu trong lĩnh vực này sẽ cho phép kiểm soát hiệu quả hơn các triệu chứng tiêu hóa trong một tương lai gần.

Những mẹo vặt để làm cho buồn nôn và ói ít đau đớn, sự thực hiện đôi khi đòi hỏi những thay đổi tạm thời trong thói quen ăn uống:
• Tránh những bữa ăn nặng. Nên ăn 4-6 bữa ăn nhẹ thay vì hai hoặc ba bữa ăn đầy ấp mỗi ngày;

• Uống nước ít nhất một giờ trước hoặc sau bữa ăn thay vì uống trong khi ăn;
• Ăn uống từ từ với thức ăn hợp khẩu vị của bạn theo nhu cầu hiện tại;

• Tránh thức ăn chiên xào, ngọt hay quá béo;
• Ăn thực phẩm lạnh (thịt trong món salad chẳng hạn) hoặc ở nhiệt độ bình thường chẳng hạn như sandwich, phô mai, ngũ cốc. Những thực phẩm này thường dễ tiêu hơn thức ăn nóng hoặc sôi bỏng vì  mùi vị thức ăn thường làm buồn nôn trầm trọng hơn;
• Ăn thực phẩm lỏng để giảm buồn nôn. Chất lỏng như nước táo, nước trái cây,  quất, nước ngọt, súp hoặc nước canh, gừng, 7-Up, trà, cola và kem thường dễ  tiêu. Nước uống nên để lạnh và uống từng nghụm. Thực phẩm mềm như khoai tây nghiền, trái cây nghiền nhuyễn như lê, táo (compote), kem (sorbet), bánh mì nướng và phô mai cũng dễ  tiêu;
• Nên thử ăn đồ ăn chua như chanh, dưa chua, kẹo chanh chua hoặc kem sorbet. Một số bệnh nhân cảm nhận hiệu quả rất tốt. Sút miệng sạch với hỗn hợp nước chanh và nước trong trường hợp thiếu chất nhầy làm viêm miệng;
• Nhai kỹ thực phẩm để giúp tiêu hóa tốt;
• Nếu buồn nôn buổi sáng, hãy ăn trước khi bạn thức dậy ra khỏi giường, các loại thực phẩm khô như bánh mì nướng, ngũ cốc hoặc bánh quy giòn (đừng cố gắng nếu miệng hay cổ họng bị đau hoặc nếu bạn biết rằng thiếu nước bọt) ;
• Uống nước ép trái cây lạnh, trong và ít đường như nước táo hoặc nho hoặc nước uống có màu nhẹ như gừng làm mất chất nồng nàn của nó;

· Ngậm đá, kẹo không đường hoặc kẹo bạc hà;
· Cố gắng để tránh ngửi mùi khói, nấu ăn hoặc nước hoa;
· Nấu và để đông lạnh thức ăn trước vài ngày vì bạn cảm thấy không khỏe khi nấunăn;
• Hãy ngồi ở một vị trí thoải mái và nơi yên tĩnh. Nếu buồn nôn xảy ra khi nằm xuống, hãy thử ngồi và ngược lại.

• Mặc quần áo rộng rãi;
• Hít thở sâu và chậm khi bạn cảm thấy mình bị buồn nôn;
• Làm mình vui vẻ bằng cách trò chuyện với bạn bè hoặc thành viên gia đình, nghe âm nhạc theo sự lựa chọn của bạn, xem một bộ phim hay thưởng thức một chương trình truyền hình;
• Thực hành thư giãn như tai-chi;
• Tránh ăn hoặc uống ít nhất hai giờ trước và sau khi điều trị nếu buồn nôn thường xảy ra trong khi điều trị, vì vậy trong khi chờ đợi, tránh tiếp xúc với thực phẩm hoặc nhìn những người đang ăn;
• Ăn một bữa ăn 3-4 giờ trước khi điều trị và sau đó vài bữa ăn nhẹ cho phần còn lại trong ngày. Hoặc ăn thường xuyên nhiều bữa ăn nhẹ 5-6 lần trong ngày;
• Hít thở không khí trong lành bên cạnh cửa sổ mở hoặc ngoài trời;
• Xin bác sỹ thuốc chống buồn nôn (antieméthique), thuốc an thần và thuốc chống viêm (histaminique);

• Cố gắng ngủ (ngủ là một phương thuốc tuyệt vời chống lại buồn nôn).



9.17. Làm thế nào để tránh các vấn đề về miệng, nướu răng và cổ họng?



Một vài thuốc chống ung thư có thể làm khô miệng, đau lợi và cổ họng hoặc gây chảy máu. Màng nhầy miệng (muqueuses buccales) có thể xuất hiện một hoặc hai tuần sau điều trị. Nhiễm trùng có thể xảy ra vì vi khuẩn khoang miệng và nhiễm trùng huyết gây ra. Điều quan trọng là cố gắng để ngăn chặn vấn đề có thể phát sinh.
Mẹo vặt để giữ cho miệng sạch, nướu răng và cổ họng:
• Gặp nha sĩ của bạn trước khi bắt đầu điều trị xạ trị, thậm chí phải dời vài ngày để làm sạch sẽ răng, nha sỹ sẽ chăm sóc những vấn đề cần thiết về sâu răng, nhiễm trùng áp xe và đau nướu răng. Hãy hỏi nha sỹ cho bạn biết cách tốt nhất để đánh răng và dùng chỉ nha khoa của bạn sau khi đánh răng. Vệ sinh răng miệng là tối cần thiết. Để ngăn chặn việc sâu răng (caries) có thể xảy ra trong quá trình hóa trị liệu của bạn, nha sĩ sẽ khuyên bạn về cách súc miệng, sử dụng nước súc miệng có chất fluoride hoặc gel nhiều lần trong ngày;

- Đánh răng và nướu của bạn sau mỗi bữa ăn, không quá mạnh, bằng một bàn chải mềm, chải răng quá mạnh có thể làm hỏng các mô mềm của miệng của bạn;
- Rửa sạch bàn chải đánh răng của bạn sau mỗi lần sử dụng và để nơi khô ráo;
- Tránh dùng kem đánh răng thương mại có chứa một lượng lớn muối hoặc rượu;
• Nếu bạn có vết lở miệng (viêm miệng), nên đi khám bác sĩ của bạn và ông ta sẽ cho đơn điều trị. Nếu vết lở miệng làm bạn đau đớn khi ăn, hãy thử áp dụng một hoặc các đề nghị khác sau đây:
- Hỏi bác sĩ của bạn nếu có gì có thể áp dụng thẳng trên vết thương. Bạn cũng có thể xin toa thuốc an thần để giảm đau;
- Lấy ra tạm, nếu cần thiết, hàm răng giả của bạn ban đêm và thậm chí cả ban ngày nếu viêm miệng làm bạn quá đau đớn;
- Ăn thức ăn lạnh hoặc ở nhiệt độ thường. Thức ăn nóng hoặc lạnh quá có thể gây kích ứng an viêm miệng và cổ họng;
- Chọn thức ăn mềm nhạt không nêm giống như kem sữa milkshakes, thức ăn trẻ em, khoai tây nghiền, sốt táo, ngũ cốc nấu chín, trứng luộc mềm hoặc pho mát trắng, pate macaroni và pho mát kem, pudding (dạng đặc mềm ). Bạn cũng có thể làm nhuyễn thức ăn nấu chín bằng máy xay sinh tố để làm mềm hơn và dễ dàng hơn để ăn;
- Tránh các loại thức ăn có chất axit như cà chua, trái cây và nước trái cây (cam bưởi và chanh), thức ăn cay hoặc mặn.
Nếu sự khô miệng làm phiền nhiểu hoặc nếu nhai và tiêu hóa quá khó khăn, bạn cón thể:

• Tham vấn bác sĩ sử dụng nước bọt nhân tạo để làm ẩm miệng của bạn;

• Uống nhiều nước;
• Hút kem hoặc kẹo cứng không đường.
Bạn cũng có thể nhai kẹo cao su mà không có đường
• Làm ướt các thực phẩm khô với bơ, nước thịt, bơ thực vật hoặc nước dùng;
• Ngâm thực phẩm giòn và cứng khô trong chất lỏng như sữa;
• Ăn thức ăn mềm;
• Sử dụng son dưỡng (baume) cho môi của môi bị khô ráo.
Khi bạn nôn mửa khi ăn, hít thở sâu bằng miệng.



9.18. Làm gì để ngăn chặn tiêu chảy?


Tiêu chảy ảnh hưởng đến khoảng 75% bệnh nhân khi làm hóa trị liệu, đó là do suy giảm hoạt động của các tế bào mặt trong của ruột. Cường độ và thời gian tiêu chảy tùy thuộc vào liều sử dụng chống ung thư, liều lượng và chu kỳ quản lý. Nếu tiêu chảy kéo dài hơn 24 giờ hoặc nếu bạn bị đau và bị chuột rút cùng với tiêu chảy, nên đi khám lại bác sĩ. Trong trường hợp nghiêm trọng, bác sỹ sẽ kê toa chống tiêu chảy, tuy nhiên không bao giờ tự bạn mua thuốc chống tiêu chảy.
Lời khuyên để giúp kiểm soát tiêu chảy
• Ăn nhiều thực phẩm ít chất xơ, giàu đạm và calo như pho mát trắng, pho mát chảy, trứng, kem sữa đun sôi, sữa chua, canh thịt nạc, nước súp dùng, cá, gà và gà tây không da, thịt bò nướng, hoặc rang, gạo hoặc súp gạo, sữa kem, khoai mì, ngũ cốc nấu chín như kem gạo hoặc lúa mì gạo, chuối, táo, táo gọt vỏ (táo có chứa pectin, chống tiêu chảy), nước táo, nước ép bưởi, quả bơ, bánh mì trắng, bánh mì nướng, bánh quy làm từ bột tinh chế, mì ống, mì, khoai tây nướng, khoai tây luộc hoặc khoai tây nghiền, bơ đậu phộng ngọt, rau nấu chín như măng tây, đậu xanh, cà rốt, đậu Hà Lan, rau bina, bầu và bất kỳ các loại rau mịn nào;
• Loại bỏ thực phẩm và nước uống có thể gây kích ứng hoặc kích thích đường tiêu hóa (tiêu chảy và chuột rút). Những thực phẩm này giàu chất xơ gồm bánh bột mì và ngũ cốc, các loại hạt, hạt giống, thức ăn chiên, chất béo như thịt lợn, các loại trái cây tươi và khô, nước hoa quả (chuối, bơ, táo và bưởi thì cho phép), rau liệu, các loại bánh ngọt, bắp rang, potato chip, các loại gia vị cay và các loại thảo mộc như hạt tiêu Guinea, cam thảo, hạt tiêu, cà ri, tỏi, cải ngựa, ô liu, dưa chua và gia vị, thực phẩm lên men tiêu hóa gây ra chẳng hạn như bông cải xanh, hành tây, bắp cải, thực phẩm và đồ uống có chứa caffeine như sô cô la, cà phê, chè, đồ uống có cồn, bao gồm cả bia, rượu và rượu vang;
• Nếu không có sự chỉ dẫn của bác sĩ, ăn nhiều thực phẩm giàu potassium để bù đắp sự mất mát các khoáng chất quan trọng vì tiêu chảy. Chuối, cam, khoai tây, mật hoa đào, khoai tây nướng và măng tây là nguồn giàu kali;
• Uống nhiều nước để thay thế lượng nước mất do tiêu chảy: sữa ít béo, chất lỏng trong như nước táo, nước ép bưởi, nước, trà và nước dùng yếu ấm và rượu bia gừng. Uống từ từ và cẩn thận để đồ uống ở nhiệt độ thường. Không uống loại thức uống có gaz;
• Ăn lượng thức ăn ít nhưng ăn thường xuyên hơn;
• Tránh các thức ăn nóng và lạnh. Nhiệt độ quá cao có thể làm xấu đi tiêu chảy của bạn. Các bữa ăn ở nhiệt độ phòng là dễ dàng chấp nhận;
• Tránh uống sữa vì sự hiện diện của chất không dung nạp lactoza, đồ ăn làm từ nhà bếp bao gồm pho mát, kem, kem chua. Cà phê, ca cao và sô cô la nên tránh bởi vì những thực phẩm này có chứa lactose. Các loại thực phẩm sau đây nói chung là có thể dùng: bơ đánh lên và sữa chua ít chất béo (lactose được thay đổi bởi các lactobacillus trong những thực phẩm này), phó mát chảy;
• Thêm nhục đậu khấu vào thức ăn. Gia vị này có thể làm giảm độ linh động của đường ruột;
• Nếu tiêu chảy nghiêm trọng bạn nên tham khảo ý kiến ​​bác sĩ. Nên hỏi xem bạn nên thử một chất ăn lỏng để cho ruột nghỉ ngơi. Khi bạn cảm thấy khỏe hơn, dần dần bạn có thể ăn thêm các loại thực phẩm ít chất xơ nêu trên;
• Nên chăm sóc da và niêm mạc vùng hậu môn: rửa bằng nước ấm và xà phòng nhẹ vùng hậu môn sau mỗi lần đi cầu, rửa sạch và lau khô bằng khăn giấy mềm, sử dụng pommade để đẩy nhanh việc chữa bệnh, dùng thuốc gây mê được chứa trong pommade hoặc dạng xịt để làm thoải mái, thường dùng bồn tắm bạn sẽ cảm thấy thoải mái hơn.



9.19 Làm gì để chống táo bón?



Táo bón có thể gây ra bởi thuốc chống nôn làm giảm trương lực của ruột (tonicite de l’intestin), hoặc đơn giản chỉ vì bạn ít hoạt động hoặc có thói quen ăn quá ít. Tham khảo bác sĩ nếu bạn nếu không đi tiểu tiện trong hơn 3 đến 4 ngày. Ông sẽ kê toa thuốc nhuận trường để khắc phục tình hình.
Lời khuyên để ngăn ngừa táo bón:
• Uống một ly nước đầy khi bạn thức dậy vào buổi sáng, trong ngày uống nhiều nước để giúp ruột rửa sạch.
• Ăn nhiều thực phẩm có chất xơ hàng ngày, chúng làm tăng khối lượng phân để giữ nước trong ruột và do đó giúp đỡ làm cho phân mềm hơn. Sự di chuyển bằng đường ruột được cải thiện và tránh sự tắc nghẽn ruột. Thực phẩm giàu chất xơ như bánh mì, cám, ngũ cốc, rau sống và trái cây tươi nguyên liệu còn da tươi và hạt, quả hạch, dừa, bắp rang, nho, chà là, mận khô và nước ép mận
• Tránh các sản phẩm chế từ sữa như phó mát và bột tinh chế,
- Uống ba lít nước mỗi ngày (ngoại trừ ý kiến riêng của bác sỹ) để tránh thất thoát nước. Các nước trái cây tươi và chất lỏng nóng đặc biệt hữu ích.
- Tập đi bộ đơn giản có thể giúp bạn cũng kế hoạch một chương trình tập luyện thường kỳ. Tham khảo ý kiến ​​bác sĩ trước khi trở nên năng động hơn.



9.20. Ảnh hưởng của hóa trị liệu trên cơ quan sinh dục là gì? Tôi cảm thấy giảm ham muốn trong quan hệ tình dục. Có phải do hóa trị liệu?



Tác dụng của hóa trị liệu trên tình dục của phụ nữ rất đa dạng. Một số tác nhân điều trị ảnh hưởng đến sự ham muốn tình dục trong thời gian điều trị, những người khác có thể không có ảnh hưởng. Các phản ứng có thể xảy ra tùy thuộc vào thuốc điều trị, tuổi bệnh nhân và sức khỏe nói chung.
Hóa trị có thể làm hỏng buồng trứng và làm giảm lượng hormone sản xuất, kết quả đối với một số phụ nữ là sự bất thường điều hành kinh nguyệt hoặc tắt tạm thời hoặc vĩnh viễn.
Tác dụng nội tiết tố của hóa trị liệu có thể gây ra các triệu chứng mãn kinh hừng nóng, đau khớp xương, khó chịu, rối loạn giấc ngủ, ngứa, rát, mô âm đạo khô. Những thay đổi này có thể làm cho giao hợp khó chịu, ngay cả khi những thay đổi này có thể được giảm bớt bằng việc sử dụng một loại kem âm đạo. Những thay đổi về âm đạo cũng có thể làm cho phụ nữ dễ bị nhiễm trùng. Bác sĩ có thể kê toa một loại kem để giảm nguy cơ rủi ro.
Trong trường hợp mang thai trong khi điều trị có thể xảy ra, điều này không được khuyến khích cho lắm, bởi vì một số thuốc ung thư có thể gây dị tật ở thai nhi. Phụ nữ độ tuổi sinh đẻ, nên uống thuốc ngừa thai trong khi điều trị. (Tuy nhiên thuốc ngừa thai sẽ không được dùng trong trường hợp ung thư vú). Nếu một người phụ nữ mang thai khi ung thư được phát hiện, việc hóa trị có thể trì hoãn cho đến khi sự ra đời của đứa trẻ. Nếu cảm thấy thật cần thiết, bác sĩ có thể đề nghị bắt đầu hóa trị liệu sau mười hai tuần đầu của thai kỳ. Trong một số trường hợp việc phá thai có thể được xem xét theo yêu cầu.
Một trong những mối lo ngại sâu sắc của phụ nữ khi cắt bỏ vú là khi đối phương của mình cũng bực bội khó chịu vì một phần cơ thể bị cắt xén làm mất đi một biểu tượng của niềm vui, nữ tính và gợi tình này. Điều quan trọng là thảo luận với đối phương và sự lựa chọn chương trình hóa trị. Cho anh ta thấy và biết vết sẹo dần dà rồi anh ta sẽ quen dần và sẽ dễ nối lại quan hệ tình dục mà không cần mất nhiều thời gian chờ đợi. Kinh nghiệm cho thấy người phụ nữ có thể biểu lộ  bệnh tật và quá trình điều trị nếu có thỏa thuận hai bên hiểu nhau về việc này một cách công khai.


9.21. Có thể giúp tôi làm giảm nóng bừng cơ thể (bouffées de chaleur) nếu tôi không thể có kích thích tố (hormone)?


Nóng bừng là một vấn đề thường gặp ở bệnh nhân ung thư vú. Chúng có liên quan đến mãn kinh, hồi phục hoặc không thể đảo ngược, gây ra bởi một số hóa trị và thuốc nội tiết tố gọi là tương đương LHRH (luteinizing hormone Releasing Hormone) làm buồng trứng "nghỉ ngơi" trong 50 năm. Chúng có thể được tăng cường bởi các thuốc nội tiết tố (như tamoxifen (Nolvadex ®) hoặc anastrozole (Arimidex ®) hoặc Letrozole (Femara ®) hoặc Exemestane (Aromasin ®). Tiếc thay, chúng ta biết rằng các tế bào ung thư vú có thể bị kích thích bằng oestrogenes thay thế, oestrogenes khiếm khuyết được chỉ định.
Các thuốc được sử dụng thường xuyên nhất trong điều trị các cơn nóng bừng là tác nhân chống tăng huyết áp, clonidine (Dixarit ®). Nó làm giảm nóng bừng trong khoảng 50% các trường hợp nhưng không hoàn toàn kiểm soát các triệu chứng khoảng 30%.
Điều trị có thể sinh ra tác dụng phụ như: khô miệng, buồn ngủ hoặc giảm áp suất máu. Để khắc phục nhược điểm này các bác sĩ đang tích cực tìm kiếm và hiệu quả hơn trong việc kiểm soát sự bừng nóng (ví dụ, xuyên qua ứng dụng của Clonidine). Một nghiên cứu gần đây cho thấy một số hiệu quả chống trầm cảm của một loại thuốc gọi là Efexor.
May mắn thay, dường như sự nóng bừng giảm cường độ và mức độ nghiêm trọng sau một thời gian mà không cần sự điều trị cụ thể nào.



9.22. Chúng ta có luôn luôn bị mất tóc không?


Nhiều dược phẩm được sử dụng trong hóa trị liệu làm tóc rơi một vài tuần sau khi điều trị và điều này có thể mất một phần hoặc toàn phần tóc, tạm thời hoặc vĩnh viễn (rất hiếm). Liều lượng và thời gian tác dụng của thuốc xác định tầm quan trọng của sự sụt giảm và quá trình của nó. Chúng tôi có thể thử ngăn chặn sự rụng tóc bằng cách đặt vào đầu của bệnh nhân trong khi tiêm một mũ đông lạnh cùng vị trí với hộp sọ, làm giảm nhiệt độ dưới mức bình thường và do đó, nó ức chế hoạt động của thuốc chống ung thư. Kỹ thuật này có xu hướng ngăn chặn các tác nhân gây độc tế bào hoạt động nhanh chóng phân chia các tế bào hình thành các chân tóc. Mũ đông đá được giử trên vai bệnh nhân để thêm hiệu lực của mũ (casque). Quá trình này làm khó chịu và chỉ được giúp trong một thời gian ngắn (20 phút) và do quyết định của bệnh nhân theo lời khuyên bác sĩ. Kết quả chỉ có hiệu quả cho vài hóa trị liệu nhất định.
Rụng lông trên các phần khác của cơ thể ít gặp hơn và ít nghiêm trọng hơn so với tóc bởi vì nang tóc có một thời gian ngắn hơn để tăng trưởng.
Vết bẩn, thuốc nhuộm và uốn tóc không được khuyến khích dùng vì các sản phẩm nầy khi được sử dụng, vì tính gây hấn của chúng, có thể làm hỏng mái tóc thêm, suy yếu do hóa trị. Nên hỏi bác sĩ của bạn.



9.23. Có một loại thuốc ngăn ngừa rụng tóc không?


Hiện chưa có điều trị phòng ngừa chống rụng tóc, nên nhớ rằng các sản phẩm được sử dụng trong điều trị hoá có độc tính cao chống lại các tế bào ung thư và sinh sôi nhanh chóng bình thường: mô từ tủy xương sản xuất tế bào máu, niêm mạc tiêu hóa và tóc.


9.24. Có những tác động tích lũy của chu kỳ hóa trị nơi bạch huyết cầu chăng?


Tác dụng độc hại phát sinh trong khi quản lý thuốc với liều lượng đủ cao để hoạt động là quan trọng. Để cung cấp mô làm phát sinh các loại tế bào máu (gọi là tế bào tạo máu) thời gian để tái tạo, người ta cần một khoảng cách từ ba đến bốn tuần giữa quản lý thuốc, khoảng thời gian càng ngắn càng tốt để không cho phép các khối u phục hồi, nhưng đủ cho các mô tạo máu tái sinh. Tác dụng của phương pháp điều trị trên các mô tạo máu có thể được tích lũy với thời gian hồi phục lâu hơn.
Nghệ thuật hóa trị ung bướu là biết ta đi được bao xa và từ đó ta sử dụng liều lượng thường kỳ để tăng cơ hội hồi phục mà không gây ra nhiều nguy cơ rủi ro.



9.25. Hoá trị bổ trợ là gì (chimiothérapie adjuvante)?


Chúng ta biết rằng một khối u chỉ phát hiện trên lâm sàng khi nó đạt đến đường kính lớn hơn một vài mm. Trong giai đoạn tiền lâm sàng dài các tế bào đã có thời gian để thoát khỏi khối u nguyên thủy và quay đi từ xa để tạo thành thuộc địa trong các mô tế bào khác hơn là trong các khối u đã hình thành "nguyên thủy" : những thuộc địa này được gọi là di căn vi mô và chỉ được truy cập bằng các phương tiện kiểm tra tốt nhất hiện nay nhưng vẫn chưa hiện hữu.
Từ đó, ý thức về điều trị di căn vi mô ở giai đoạn phát triển này qua sự hóa trị, đề phòng bệnh nhân không có di căn phát hiện lâm sàng, nhưng là nơi ta có lý do nghi ngờ sự hiện diện của chúng.



9.26. Các tiêu chuẩn nào được xét lợi ích để xác định nguy cơ tái phát cao và do đó điều hành hóa trị liệu có bỗ trợ không?


Điều hành đúng cách điều trị bổ túc cần phải phân biệt giữa tất cả các bệnh nhân, những người mà sự tồn tại của di căn khó bị phát hiện rất cao có thể xảy ra, trong khi người khác có nguy cơ tái phát thấp. Thật vậy sự điều trị bổ túc các biến chứng khó chịu này (rụng tóc, ói mửa, tình trạng suy giảm tổng quát). Nhưng những bất lợi thường được coi là thấp so với lợi ích tiềm năng và chúng gần như hoàn toàn được đảo ngược. Điều quan trọng là những bệnh nhân này cần phát triển ý chí can đảm như cầu thủ bóng bầu dục là "giảm tinh thần của sự thất bại và tăng giá trị của chiến thắng". Do đó nên tránh bao gồm tất cả bệnh nhân mà chỉ nghĩ đến các yếu tố nguy cơ có lợi cho việc xác định sự lựa chọn (xem bảng 3 và 4 và thuyết minh đính kèm).
Các yếu tố nguy cơ nào cần được xem xét? Có rất nhiều yếu tố như cơn thịnh nộ của bệnh nhân, số lượng xâm lược các hạch nách, kích thước khối u, loại mô học (có nghĩa là để nói rằng cấu trúc của mô và tế bào, tỷ lệ phổ biến vũ khí, vv) và sự có mặt hay vắng mặt của một số "thu nhận" (ví dụ người tiếp nhận neu - xem 11.2). Tất cả những yếu tố này là số lượng các hạch bạch huyết nách xâm chiếm phần lớn ảnh hưởng đến tiên lượng. Ngoài ra chúng ta phải phân biệt giữa các khối u phát triển nhanh chóng và có nguy cơ cao và di căn sớm, nhiều khối u phát triển chậm và ít nguy cơ di căn. Trường hợp đầu tiên là tích cực và cần điều trị mạnh mẽ và lâu dài, và trường hợp thứ hai là chậm, rất tích cực và dễ kiểm soát hơn.
Nhiều nghiên cứu chứng minh rằng liệu pháp phòng ngừa tiến hành ngay sau khi phẫu thuật cắt bỏ vú sẽ tăng cơ hội phục hồi. Hóa trị liệu này, chất bỗ trợ sau phẫu thuật cho biết, được đề nghị ​​sau khi điều trị phẫu thuật khối u nguyên phát di căn mà không thể nhìn thấy trên X quang nhưng ta có "lý do để nghi ngờ sự tồn tại của nó”. Yêu cầu bác sĩ giải thích bằng ngôn ngữ đơn giản, những lợi ích mà bạn có thể mong đợi ở liệu pháp bỗ trợ. Đừng ngần ngại đòi hỏi một lời giải thích rõ ràng về những nguy cơ rủi ro và bất lợi tiềm năng của điều trị này.



9.27. Tôi đọc một bài viết về sự kém hiệu quả của hóa trị liệu cho phụ nữ sau mãn kinh. Điều này bác sỹ nghĩ sao?



Cái gọi là hoá trị bổ trợ (xem đoạn 9.25) có một chứng minh sự hiệu quả cho đến tuổi 70. Nó có lợi cho phụ nữ trước và sau khi mãn kinh, lợi ích dường như quan trọng hơn trước tuổi 50.
Quy định hóa trị như là một phần của căn bệnh tái phát có hiệu quả trong tất cả các nhóm tuổi ... nhưng cần thận trọng ở bệnh nhân cao tuổi sẽ dễ bị tổn thương  với tác dụng phụ.


9.28. Sau bao lâu chúng ta có thể nhận ra rằng hóa trị liệu có hiệu quả?

Đối với hoá trị bổ trợ (đoạn 9.25) thì không có sự tái phát trong thời gian sẽ xác định sự hiệu quả của nó. Khi nói về việc tái phát đối với hóa trị thì hiệu quả của nó có thể thấy sau khi 2 hoặc 3 phương pháp điều trị (giảm kích thước khối u di căn trong của nó, các triệu chứng được cải thiện...)


9.29  Tôi đã trải qua hóa trị liệu 3 tháng trước, tôi bị tê cứng quan trọng trong các khớp xương đặc biệt là vào buổi sáng. Tại sao vậy?


Có thể đây là những đau khớp xương rất hiện đại của thời kỳ mãn kinh (ngừng kinh nguyệt), tạm thời hoặc vĩnh viễn, sinh ra bởi hóa trị liệu. Điều này có thể, quả thật vậy làm buồng trứng nghỉ ngơi. (thông thường sự nghỉ ngơi có tính cách thoáng qua khi phụ nữ dưới 45 tuổi, nhưng thường là vỉnh viễn sau 45 tuổi).
Lời khuyên về vệ sinh trong cuộc sống để chống lại những vấn đề về khớp xương là:
_ Hãy cẩn thận không nên tăng trọng lượng quá nhiều
_ Thường xuyên hoạt động thể chất.

Tham khảo về câu trả lời các câu hỏi từ phần 9.12 đến phần 9.19: những lời khuyên về cách quản lý chăm sóc chống lại các tác dụng phụ khác nhau như bị nhiễm trùng, chảy máu, mệt mỏi, buồn nôn, nôn, miệng vấn đề, kẹo cao su và / hoặc cổ họng, tiêu chảy, táo bón - do điều trị hóa trị liệu, từ một sự dịch bản của Yasko J. tựa đề: Hướng dẫn chăm sóc bệnh ung thư: Quản lý các triệu chứng. Reston, Virginia, Reston Publishing Company, 1983

10. Hormone( nội tiết tố/kích thích tố)

10.1. Làm thế nào điều trị hormone có thể hiệu quả cho bệnh ung thư vú?


Chúng ta biết rằng một số hormone kích thích sự gia tăng của các mô, những loại khác làm chậm lại cho dù khỏe mạnh hay ung thư (xem đoạn 3.6 và 3.7). Phân chia tế bào của tuyến vú bình thường được kích thích bởi hormone nữ oestrogenes. Kích thích này được biết qua hơn một nửa số bệnh ung thư vú.
Người ta được tìm thấy thể hormone này qua những hoạt động trên tế bào ung thư đã phân tử trên bề mặt của chúng (gọi là thụ thể) có khả năng "nắm bắt" và do đó thúc đẩy hoạt động để kích thích tăng trưởng tế bào khối u (xem Bảng 2 và thuyết minh đính kèm). Những tế bào này được gọi là hormone nhạy cảm, ngừng sinh sản khi bị loại bỏ hoặc chống lại hormone kích thích. Điều này có thể được thực hiện bằng việc loại bỏ buồng trứng ở phụ nữ dưới 50 tuổi, bằng cách ức chế enzyme (gọi là aromatase) có khả năng sản xuất oestrogenes ở phụ nữ sau mãn kinh do cách dùng thuốc "ức chế aromatase ", hoặc của một loại thuốc" chống oestrogenes đối kháng lại họat động của oestrogenes.
Làm thế nào liệu pháp hormone được tạo ra?
Vào cuối thế kỷ 19, một bác sĩ phẫu thuật người Anh, nhận thấy một sự sụt giảm đáng kể của một số bệnh ung thư vú sau khi phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng. Thế là nội tiết tố Hormone được sinh ra. Tiếp theo đó là một kỹ thuật: việc chiếu xạ cả hai buồng trứng, loại bỏ các nguồn chính của nội tiết tố (oestrogenes) nhưng không phải là duy nhất mà tuyến thượng thận cũng có thể sản xuất hormone này.  Sự nghiên cứu bắt buộc phát triển các phân tử tổng hợp còn được gọi là gen chống lại oestrogenes chính gốc, những gen này có thể ngăn chặn các thụ thể oestrogenes bằng cách ghép vào chúng, hoặc chống lại các kích thích tố tự nhiên và những phân tử này rất giống nhau nhưng chỉ khác là nó ngăn chặn sự kích thích hormone tự nhiên và do đó ngăn chặn sự gia tăng của các tế bào ác tính. Từ đó người ta được biết đến cái tên Tamoxifen (Nolvadex ®).


10.2. Nếu bệnh bị tái phát, có thể điều trị bằng liệu pháp nội tiết tố di căn không?


Khi một khối u nguyên phát có chứa các thụ thể estrogen (phụ thuộc vào nội tiết tố), sự di căn cũng chứa thụ thể oestrogenes phát triển sau đó. Như đối với bệnh nhân có khối u thiếu thụ thể oestrogenes, bất kỳ hình thức trị liệu hormone nào cũng có rất ít cơ hội thành công.


10.3. Tại sao bác sỹ cho tôi dùng hóa trị và liệu pháp hormone trong khi người hàng xóm của tôi chỉ có hóa trị liệu?


Ngày nay chúng ta kiểm tra cẩn thận liệu ung thư để xem có hoặc không có khả năng đáp ứng thuận lợi với điều trị nội tiết tố. Nếu nó là một ung thư nội tiết tố độc lập thì việc trị liệu nội tiết tố là không cần thiết vì kém hiệu quả, trong trường hợp này hóa trị là lựa chọn hay nhất.
Có thể ngoài sự liệu pháp hormone thì việc điều trị sẽ được bổ sung bằng hóa trị liệu. Hy vọng là các tế bào nội tiết tố nhạy cảm với hóa trị thường xuyên.

Trong các sự kết họp như thế yếu tố "tuổi" và nguy cơ tái phát có ảnh hưởng không nhỏ: hóa trị liệu thường được bổ sung thêm một liệu pháp hormone trong số những phụ nữ trẻ và ở phụ nữ có nguy cơ tái phát cao.


10.4. Các tác dụng phụ của liệu pháp nội tiết tố là gì?


Các tác dụng phụ của Tamoxifen (Nolvadex ®) ít được phổ biến; có thể gây nên sự bừng nóng, tăng cân, buồn nôn nhẹ, rụng tóc, giữ nước, ngứa âm hộ, kích thích tiết dịch âm đạo nhiều hơn. Những tác dụng phụ thường giảm dần sau một vài tuần. Điều quan trọng là yêu cầu bác sĩ chữa dứt hẳn tác dụng phụ. Các thuốc khác thường được quy định nội tiết tố gọi là chất ức chế aromase (Arimidex ®, Femara ®, Aromasin ®) cũng có tác dụng phụ so với tamoxifen. Thuốc này cũng gây nguy cơ tác dụng phụ rất thấp (2 / 1000) về ung thư tử cung, có dấu hiệu đặc trưng là làm chảy máu âm đạo nặng. Bạn cần tham khảo ý kiến ​​bác sĩ phụ khoa.
Cuối cùng tất cả các phương pháp điều trị nội tiết tố có liên quan với nguy cơ thấp (2 đến 5 / 100) của viêm tĩnh mạch. Tham khảo ý kiến ​​bác sĩ ngay nếu bị đỏ, sưng hoặc đau ở chân.

Tham khảo: 
Những nghiên cứu về sự phát triển của ung thư được dựa trên sách của Tiến sĩ GERNER về "ung thư".  La Vie Claire chỉnh sửa.

Thông tin theo hồ sơ cho bệnh nhân và được: "Các nghiên cứu lâm sàng", do EORTC 83, Ave  E. Mounier, BTE 11, B-1200 Brussels. Tel. 32.2.774.16.30.
Dịch từ nguyên bản của Emile Gevenois và Martine J. Piccart Gebhart
Tiến sĩ D. Vander Steichele, giám đốc của Liên đoàn chống ung thư Beige scientic, một tổ chức phi lợi nhuận, 479, Chaussée de Louvain, B-1030 Brussels. Điện thoại: 32 2 733 68 68..
Hội chống ung thư Thụy Sĩ ; 40 Effingerstrasse, Postfach 8219, 3001 Bern Thụy Sĩ Tel 031 389 91 00

Snowynguyen, phiên dịch theo sách Ce que vous ameriez savoir à propos du cancer du sein do Quỹ Từ Thiện Jean-Claude Heuson asbl cung cấp.
Chỉnh sửa Phuc Nguyen
Xin xem tiếp phần cuối

Hiệu ứng tuyết rơi