Sunday, August 14, 2011

NHỮNG ĐIỀU NÊN BIẾT VỀ UNG THƯ VÚ-PHẦN 1

Lời tựa

Ung thư vú là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu của phụ nữ các nước công nghiệp tân tiến: theo thống kê thì một trên mười hai người phụ nữ mắc phải căn bệnh hiễm nghèo này trong đời sống hàng ngày của họ. Một vài trường hợp ngoại lệ rất hiếm ở nam giới cũng có thể mắc phải ung thư vú.
Bất kỳ bệnh nhân ung thư nào cũng đều đặt nhiều câu hỏi khi mắc bệnh. Vấn đề làm bệnh nhân phiền nảo lo lắng không phải là căn bệnh màmối quan tâm của họ về phương pháp điều trị họ phải chọn. một sự phán đoán hay thành kiến sợ sệt về ung thư khiến nạn nhân mù mờ hay không biết tí gì về khối u ví như họ đang ở trong bóng tối, mọi người nhìn thấy vạn vật theo cách riêng của mình" (theo Xavier Bichat). Bệnh nhân sẽ trải qua cuộc sống thật khó khăn vì lúc nào cũng mang những cảm xúc sợ hãi, lo âu, v.v.v… tạo ra một tâm trạng khủng hoảng tâm thần. Nỗi sợ hãi vì căn bệnh làm cho s điều trịng khó khăn hơn là tình trạng thật của căn bệnh đó.
Các câu hỏi được đặt ra bởi nhiều bệnh nhân trong suốt quá trình điều trị, chứng minh một điều là họ rất cần rất nhiều kiến ​​thức y-khoa (là một phương thuốc giải độc hiệu nghiệm cho sự sợ hãi) như thông tin chính xác, rõ ràng và kịp thời, thông tin về di chứng có thể xảy ra, tác dụng phụ, v.v.v ... và các nghiên cứu lâu dài về cách cứu chữa.
Chúng tôi khó lòng giúp đỡ hữu hiệu cho bệnh nhân nếu cng tôi không cố gắng cung cấp những câu trả lời bằng văn bản mà thông thường chỉ được lặp đi lặp lại trong các bảng ghi chú, hay có lẽ qua những cuộc đối thoại với các bác sĩ nhưng ít được ghi lại hoặc không được hiểu rõ và .. sau đó nhanh chóng bị lãng quên. Một số câu trả lời của bác sĩ có thể không phải luôn luôn được hiểu với tính cách khách quan cần thiết vì sự phức tạp của ngữ vựng, phương thức hay quan niệm. Tuy nhiên, những câu trả lời cần được loại bỏ tính chất bi quan về sự chuẩn bệnh mà hầu hết người bình thươờg không hiểu cặn kẽ.
Im lặng hoặc ngược lại như ‘’ngồi lê lếch trong những phòng chờ’’ lại càng tệ hại hơn!
Nhiều trường hợp bệnh nhân ngần ngại không dám hỏi, cộng thêm có vài bác sĩ chưa sẵn sàng để trả lời câu hỏi của bệnh nhân. Rất ngạc nhiên là vẫn còn nhiều bác sỹ thiếu kỹ năng giao tế để đối đáp trong những trường hợp khó khăn nhất?
Trong chiều hướng đó đã thúc đẩy chúng tôi thực hiện công việc viết ra bài tường trình hướng dẫn này với ước mong đáp ứng được một số câu hỏi đơn giản và dễ hiểu từ các bệnh nhân.
Trong bộ sưu tập các câu hỏi và trả lời, chúng tôi nhìn thẳng vào thực tế con bệnh mà bất cần đạo đức giả hay lạc quan giả tạo, không bi quan hay có đầu óc thất bại đầu hàng trước sự việc. Với  một kiến thức hiểu biết cao về bệnh và những phương tiện thích ứng có thể sẽ giúp bệnh nhân cảm thấy nhẹ nhõm hơn, hầu mong giúp nạn nhân còn lý do để hy vọng và nhìn thấy tương lai thật của họ. Ngoài ra, nếu câu trả lời có lợi và hửu ích cho bệnh nhân thì nó trở nên một công trình thành công và các kỳ vọng làm cho họ hiểu rõ hơn căn bệnh. Điều lành ấy sẽ giúp bệnh nhân tìm thấy một tia sáng hi vọng để sống. Sau đó, cuộc sống của họ sẽ còn không mất ý nghĩa chỉ vì một từ ngữ hay một câu trả lời, từ đó bệnh nhân có thể tự tìm thấy đề tài để suy gẫm lại và lý luận để soi sáng sự suy nghĩ của mình.
Những câu hỏi và trả lời trong một bài tường trình y-khoa không thể thay thế các cuộc đối thoại với bác sĩ, đặc biệt là những thông tin này được thu thập qua nhiều chuyên gia y-khoa khác nhau. Tuy nhiên, họ cũng có thể giúp bệnh nhân có một căn bản thích hợp hơn để đặt những câu hỏi chính xác khi đối diện với nhân viên y tế.
Tuy nhiên, chúng tôi rất thận trọng khi cho y kiến qua mạng Internet. Chính nhờ vào những k thuật mới này, đang bành trướng mạnh trên Net, được trình bày dưới dạng web dành riêng cho vấn đáp về sức khỏe, bạn đặt câu hỏi của bạn và bác sĩ trả lời tư vấn y tế miễn phí cho bạn. Một thông báo không phải là một tư vấn y tế mà luôn luôn đòi hỏi một cuộc khám xét để chuẩn đoán và theo dõi lâu dài căn bệnh ung thư. Đôi khi bệnh nhân bị nhức đầu với những từ ngữ nữ tính khó hiểu như thụ thể, hormone, gen ung thư (oncogène), kháng thể (anticorps), v.v.v... Điều này đưa các quý bà vào sương mù! Chúng tôi cũng khuyên các quý bà nên cảnh giác các dược sĩ trên mạng có thể bán sản phẩm lang băm như “thuốc tiên có khả năng chữa bệnh ung thư vú" ...
Chúng ta hiện tại đang ở đâu? Để đáp ứng nhu cầu phụ nữ phải đối diện với tình trạng lo lắng như đa số các bệnh nhân, chúng tôi loại bỏ các câu hỏi khó và rắc rối, dựa vào những thắc mắc thông thường và trả lời của nhiều đọc giả từ mạng. Trong tình huống ấy chúng tôi cố gắng dàn dựng những câu trả lời như một cuộc đối thoại trực tiếp của các nhà sinh học và bác sĩ ung thư cao cấp.
Để trả lời các câu hỏi đã gây ra nhiều lo lắng cho quý bà, chúng tôi mạn phép trích dẫn từ nhiều ấn phẩm của Viện Ung thư Quốc gia thuộc cơ quan chính phủ Hoa Kỳ, Liên đoàn Thụy Sĩ phòng chống ung thư. Chúng tôi cũng tham khảo nhiều bộ sách tuyệt tác về bệnh ung thư như văn bản của Giáo sư Maurice Tubiana, mà trong nhiều năm đã nắm giữ chức vụ chính Viện Gustave-Roussy, ở Villejuif (Pháp), Giáo sư Claude Jasmin, trưởng ban Huyết học, hệ miễn dịch học và sinh học ung thư tại Bệnh viện Paul-Brousse ở Villejuif (Pháp), Giáo sư François-Michel Bernard trực thuộc
Khoa Y của Viện Montpellier (Pháp), Guy de Các, MD bác sĩ Khoa học, giám đốc nghiên cứu CNRS Hubert và Annie, một nhà nhân chủng học tại C.N.R.S. (Pháp), Jean Bernard của Học viện Pháp và Giáo sư M. Yasko Joyce, RN, Tiến sĩ, Đại học Pittsburgh Trường Điều dưỡng (Mỹ). Họ cung cấp rất nhiều câu trả lời.
Tiến sĩ Didier Vander Steichele, giám đốc khoa học của Liên bang Bỉ chống ung thư, đã viết một bài báo với tựa đề "Phương pháp thay thế điều trị: hy vọng và ảo tưởng". Bài báo khuyên chúng ta nên thận trọng và rất khách quan khi lựa chọn các loại thuốc và phương pháp điều trị để đề nghị cho bệnh nhân với tinh thần tôn trọng tự do của họ.
Tiến sĩ SC Guy Leclercq, giám đốc phòng thí nghiệm ung thư vú Heuson Jean-Claude, Viện Jules Bordet tại Brussels đang xem xét các bản thảo và suy ra những câu trả lời với những suy nghĩ thật xây dựng.
Y Chaudiez đã giúp chúng tôi rất nhiều về cách hành văn cuốn sách này bằng cách lượt khai ra những khiếm khuyết.
Chúng tôi xin chân thành gởi lời cảm ơn đến tất cả quí vị.
Brussels tháng sáu năm 2001
Dịch từ nguyên bản của Emile Gevenois và Martine J. Piccart Gebhart
1.            Tế bào ung thư vú

Để trình bày một cách rõ ràng, các câu hỏi của bệnh nhân sau đây đã được chỉnh sửa cũng như về sự chính xác. Các câu hỏi này được đưa vào dạng đề mục và sắp xếp theo chủ đề. Trong mục đích tiêu chuẩn hóa các từ ngữ "kích thước", "trọng lượng", "quả bóng" sẽ bị loại bỏ và được thay thế bằng những từ ngữ như "hạch",” hạn” và "khối u" (lành tính, ác tính).

1.1 Khối u bướu là gì?

Cơ thể con người được cấu tạo bởi một khối lượng của 5 x 1013 tế bào (50.000.000.000.000) và những tế bào này được đổi mới liên tục cho đến cuối cuộc đời. 200 tỷ tế bào của cơ thể con người mỗi ngày chết và được thay thế bởi một số lượng tương đương theo một chu kỳ qui định điều tiết chính xác. Mỗi mô tế bào vẫn giữ được hình dạng và khối lượng của nó. Một tế bào được sinh ra, sống và chết theo một chu kỳ đã định sẵn một cách hòan hảo.
Thỉnh thoảng, một tế bào trong một bộ phận cơ cấu cụ thể nào đó trở nên bất thường và không chết, sẽ trở thành sự khởi xướng của một khối lượng tế bào thoát khỏi cơ chế bình thường của sự kiểm soát và quy định. Khối lượng này tạo ra do một sự gia tăng không thích hợp và không ngừng. Nó được gọi là khối u có thể lành tính (
 không có hậu quả nghiêm trọng) hoặc ác tính (có khả năng khái quát và liên kết với nguyên nhân tử vong)
·      Khối u lành tính (mụn cóc, u xơ, biểu mô bất thường polypes) không thể là ung thư và có thể được mổ loại bỏ và chữa khỏi bằng phẫu thuật;
·      Các khối u ác tính sẽ trở thành ung thư. Cả hai thuộc ác tính là:
* Khả năng của tế bào ung thư sinh sôi nảy nở và xâm nhập vào bộ phận cơ thể trong đó các khối u xuất hiện cũng như những mô tế bào xung quanh;
* Khả năng sản xuất loại ung thư phụ tỏa lan ("di căn" trong ngôn ngữ y tế) có thể đưa vào các tế bào ung thư vào các mô khác, đôi khi nó tách xa từ khối u "nguyên thủy", qua dòng máu hoặc bạch huyết lưu thông để sinh sôi nảy nở.
Ngày nay, người ta không thể trả lời những câu hỏi đơn giản như:
"Nguyên nhân gì gây ra ung thư?" ngoại trừ khoảng 10% ung thư gây nên do di truyền.
Chúng tôi đưa ra đây một văn bản dưới dạng vấn đáp hơi khô khan nhưng nó cho chúng ta một khái niệm cần thiết về sự phát triển của ung thư!. Phần bài viết có thể không quan trọng để đọc hoặc có thể đọc sớt qua mà không hẳn sẽ làm chậm lại việc tìm hiểu xâu xa hơn.
Để hiểu rõ tầm quan trọng về tốc độ tăng trưởng ung thư vú, chúng ta sẽ bắt đầu từ cấu trúc tế bào của một bộ phận cơ quan khỏe mạnh, sau đó chúng tôi sẽ xem xét quá trình tiến hóa của cấu trúc này ngay cả khi cơ thể có chứa tế bào ung thư.
Sự tăng trưởng của các tế bào của cơ thể đạt được nhờ sự chi phối từ tế bào đầu tiên được thụ tinh bởi một tinh trùng mẹ (nhỏ hơn một đầu kim) và cuối cùng tạo ra một cơ thể con người gồm 5 x1013 tế bào. Khi một tế bào sinh sản sắp chết sẽ sinh ra hai tế bào cái; một tế bào thay thế vai trò chính để sinh sản và tế bào phụ với nhiệm vụ hỗ trợ như người làm công. Bằng cách ấy khối lượng cơ cấu được duy trì và sự thay thế luân chuyền sẽ được bảo đảm.
Đối với các tế bào ung thư, nó là cơ quan chính để phân chia, nhưng cũng sinh ra hai tế bào con với dị tật di truyền giống như nó. Ung thư là một căn bệnh xảy ra trong tế bào. Giả sử rằng sự tăng trưởng trung bình của các bộ phận xảy ra bốn lần mỗi năm. Khi thời gian tăng gấp đôi khoảng 100 ngày, khối u sẽ tăng gấp đôi kích thước mỗi một trăm ngày (thời gian tăng gấp đôi trung bình của các tế bào ung thư vú trung bình là 56 ngày nơi phụ nữ tiền mãn kinh và 69 ngày ở phụ nữ mãn kinh). Trong năm đầu tiên, các tế bào ung thư sẽ gia tăng liên tục bằng 2, 4, 8, 16 lần để đáp ứng với bốn vùng kế tiếp. Vào cuối năm thứ hai sau khi sinh ra, sẽ có khối lượng khối u, sau khi liên tiếp bốn vùng mới như 32, 64, 128, 256 tế bào ung thư. Sau khi năm thứ ba, 500, 1.000, 2.000, 4.000 tế bào ung thư (xem bảng đính kèm sau đây).

Sự tiến triển của khối u mở rộng với tốc độ nhanh trong một thời gian rất dài. Tuy nhiên, đôi khi vài năm trước khi bị phát hiện (trung bình là tám năm đối với ung thư vú, mười một năm đối với ung thư phổi, 20-30 năm đối với bệnh ung thư màng phổi gây ra bởi sợi đá (amiante), v.v.v…. Nó cần có thời gian để gây ra bệnh ung thư.

Ngoài những dữ liệu này, chúng ta nên lưu ý rằng cứ trung bình:
- Dưới 1.000 tế bào (khối lượng của 1 / 1.000 mgr tạm thời đạt được trong năm thứ hai của vị trí thứ 10), tình trạng các tế bào ung thư rất ư bấp bênh bởi vì chúng bị cạnh tranh với các tế bào bình thường và có thể chúng bị mất hiệu quả gây nên do tác động của hệ thống miễn dịch, sự xác nhận tính chất mong manh trong điều kiện bình thường. Điều này chưa đúng hẳn nhưng chứng tỏ khối u có thể hồi phục một cách tự nhiên;
- Vào cuối năm thứ năm (khoảng vị trí thứ 20), khối lượng là 1.000.000 tế bào ác tính với một trọng lượng khoảng 1 milligram và một dung tích độ 1 mm3 nếu người ta cho rằng mỗi tế bào ung thư có một đường kính lớn hơn 10 micron ( 1 micron = 1 phần triệu của mét). Khối lượng này thường chưa được phát hiện. Trong quá trình phát triển ở những 4-5 năm đầu, khối tế bào u thể hiện sự mong manh và dễ bị tấn công. Những kháng thể của cơ thể trở nên kém ổn định. Sau khi đạt được điểm không thể lùi bước và khối u sẽ đạt đến một khối lượng có thể ngăn cản việc chuyển hồi. Giai đoạn này khối u cần được sự hỗ trợ bởi những tế bào mạch máu;
- Trong năm thứ tám, sự tiến hóa của vị trí thứ 30 thì khối lượng của một tỷ tế bào ung thư đạt được sẽ trở thành 1 gram mô khối u với một dung tích 1 cm3
• Khối này với kích thước của nó sẽ được phát hiện bằng dụng cụ y khoa vì chưa gây ra bất kỳ rắc rối nào mà chúng ta có thể nghi ngờ là ung thư. Nếu khối u được phát hiện trong năm thứ tám, tăng trưởng ngầm bị đình hoãn lại. Trọng lượng và dung tích của khối u tiếp tục tăng gấp đôi mỗi ba tháng và một năm sau đó khối lượng tăng lên 15 gram và sự chữa trị trở nên khó khăn hơn và cần nhiều thời gian;
-Khi khối lượng của 1.000 tỷ tế bào đạt đến dung tích 10 cm đường kính, khối u nặng khoảng 1 kg sẽ giết chết các cơ quan lân cận quan trọng do hậu quả của sức nén của nó và chủ yếu là do sự di căn hoạt động trong một cơ quan xa như gan, phổi hoặc não.

SỐ LƯỢNG TẾ BÀO UNG THƯ
Năm               
tiến
hóa







1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
1
16
256
4.000
64.000
1 tr
16 tr
250 tr
4 tỷ
64 tỷ
2
32
500
8.000
128.000
2tr
32 tr
500 tr
8 tỷ
128 tỷ
4
64
1.000
16.000
250.000
4 tr
64 tr
1 tỷ
16 tỷ
250 tỷ
8
128
2.000
32.000
500.000
8 tr
128 tr
2 tỷ
32 tỷ
500 tỷ
16
256
4.000
64.000
1 tr
16 tr
250 tr
4 tỷ
64 tỷ
1.000 tỷ
                                                                                                                                                                        
Theo những nghiệm xét trên cho thấy khối u tăng gấp đôi giữa lần tăng trưởng thứ 30 (khối u sau sẽ đạt được 1 cm đường kính) và 40 (khối u sẽ có 10 cm đường kính), sự xuất hiện bình thường của ung thư là biểu lộ qua sự khám xét và bác sĩ ung thư có thể chữa trị . Điều này có nghĩa rằng mỗi thời gian sáu tháng giữa năm thứ bảy và tám rất cần thiết tìm ra khối lượng của khối u khi chụp quang tuyến. Trước khi đạt được sự tăng trưởng thứ 30, cuộc rối loạn của ung thư đã im lặng. Đối với các khối u phát triển nhanh chóng, rất tốt với một mối đe dọa tiềm năng, thời gian trích dẫn ở trên có thể được chia làm bốn vùng. Ngược lại, các khối u phát triển chậm có ít tiềm năng để di căn.
Sự hung hãn của một khối u được chứng minh bằng thời gian tăng trưởng gấp đôi của nó nhiều hơn kích thước và là một manh mối rất quan trọng trong việc lựa chọn sự điều trị.
Về câu hỏi: "Kể từ khi nào tôi mang bệnh ung thư vú?". Câu trả lời là trong trường hợp một thời gian tăng trưởng 100 ngày (khoảng bốn khu vực mỗi năm), từ 7 đến tám năm chuyển từ giai đoạn đầu tiên của khối u để trở nên m
t tế bào ung thư với kích thước 5 mm.

1.2.     Những dấu hiệu gì được cần cảnh báo?


Sự hiện diện của một khối u vú có thể được phát hiện bởi:
- Một kích thước như một "quả banh" hay một chỗ dày cư
́ng không đau ở vú hoặc dưới nách;
-Thay đổi ở tuyến vú;
- Một núm vú co rút vì sự hiện diện của làng da mộc;
- Việc rĩ tự nhiên của chất lỏng hoặc máu từ núm vú, kiểm tra bằng cách sờ n
n núm vú nhẹ nhàng để xem xét nếu không chảy ra chất lỏng (không cần sờ nn mạnh vì trong trường hợp này, việc chảy chất lỏng là bình thường) ;
- Sự thay đổi màu da, kết cấu da của vú hoặc quầng vú;
- Sự thay đổi nhạy cảm khi được sờ (huyết áp, đau đớn, cảm giác nóng thân nhiệt).
Các dấu hiệu này bao giờ cũng được giải thích hoặc với sự điều trị mà không xác định được nguyên nhân. Họ có thể nhận thấy kết quả do ung thư hoặc một vài dấu hiệu nghiêm trọng.
Sự phát hiện sớm các dấu hiệu này sẽ làm d
ễ dàng cho giới y khoa nếu đựơc theo dõi thường xuyên (mỗi tháng một lần) về những thay đổi trên tuyến vú. Tuy nhiên, sự thay đổi về hình dạng, kích thước và cấu trúc có thể được kết hợp với các nguyên nhân khác như ảnh hưởng của chu kỳ kinh nguyệt, tuổi, mang thai, v.v.v... Đó là lý do tại sao điều quan trọng là tất cả phụ nữ nên tự kiểm tra bằng cách sờ nắn vú lúc gần 20 tuổi. Bác sĩ sẽ cho nhiều lời khuyên hữu ích liên quan về việc này. Bằng cách làm đó mỗi tháng một lần, một tuần sau khi bắt đầu kinh nguyệt, hoc cùng ngày uống thuốc ngừa thai, người phụ nữ nên biết trạng thái bình thường của ngực mình, khi quen biết chúng trên các đầu ngón tay sẽ giúp cho họ phát hiện những bất thường một cách dễ dàng hơn.
Cô ta sẽ nhận thấy rằng vú không phải là khối đồng nhất: nó bao gồm tuyến, tiểu thùy, các mạch máu và mạch bạch huyết và mô liên kết (chất béo). Sau khi mãn kinh, tự khám vú sẽ tr nên thói quen thường kỳ mỗi tháng.

2.            Chẩn đoán xét nghiệm

2.1. Chúng ta phải làm gì khi phát hiện dấu hiệu bất thường?

Các khám phá về sự hiện diện của một trong những dấu hiệu bất thường như nói ở trên (đoạn 1.2) đòi hỏi một sự kiểm tra  trong y viện kỹ lưỡng bởi các bác sĩ gia đình hoặc bác sĩ phụ khoa. Họ sẽ kiểm tra ngay cả khi chụp hình vú được thực hiện gần đây (chiếu chụp nhũ hoa với mục đích tìm kiếm một sự bất thường khi không có dấu hiệu nào). Trong quá trình kiểm tra y viện, bác sĩ sẽ thu thập các thông tin đầy đủ nhất về tỷ lệ tăng trưởng của khối u, phát hiện sự bành trướng của nó, v.v.v… cũng như tiền sử bệnh ung thư hay phơi nhiễm ung thư, nhiễm phóng xạ của bệnh nhân... Những kiểm tra  này sẽ dẫn đến việc chẩn đoán khối u lành tính như u lành của tuyến vú (adènobrome) hoặc u nang (lành tính đào tạo, mặc dù bị hạn chế bởi một mô hình sạch và thường là một chất lỏng) hoặc bệnh ác tính.
Nếu nghi ngờ, họ sẽ cho chụp X-quang (chụp nhũ ảnh để chẩn đoán đòi hỏi sự hiện diện của một bất thường ở vú một người phụ nữ có triệu chứng và cần phải sử dụng máy X-quang chuyên môn). Và nếu cần Bác sĩ sẽ thực hiện một sự khám xét cặn kẻ hơn.
Trong mọi trường hợp bạn nên tham khảo ý kiến ​​bác sĩ càng sớm. Thời gian để chẩn đoán ung thư là liều thuốc hiệu nghiệm
nhất.

2.2. Sáu tháng sau khi tôi trình diện ở y viện và nghe nói rằng mọi thứ đều bình thường, bệnh ung thư xem như không hiện hữu. Sự kiểm tra  như vậy có thiếu sót gì không?

Một số câu trả lời có thể được đề nghị như sau:
1. Trong quá trình kiểm tra  y tế, việc tìm kiếm các bất thường được dựa trên sự xem mạch, chụp
ảnh nhũ hoa, sờ nắn thì một khối u kích thước khoảng 5 mm hiện trên mặt da hoặc bên trong sẽ được phát hiện. Nhưng nếu có khối u 2 cm nằm sâu  trong ngực quá lớn có thể không được phát hiện rõ nét, đặc biệt là nếu cấu trúc các mô vú là hạch. Đối với chụp hình nhũ hoa, điều cần thiết là chất lượng của mấy ảnh tương phản có thể làm sai lạc việc giải thích về việc quan sát.
Trong phần kết luận, kết quả hình chụp cần phải được gửi tới trung tâm kiểm nghiệm được trang bị với thiết bị X-quang tối tân cho chuyên gia. Sự khám nghiệm khi chụp hình vú không được kiểm soát chặt chẽ nghiêm ngặt có thể không hiệu quả khi được giải thích để cung cấp kết quả về cá tính của khối u - lành tính hoặc ác tính. Sự khám nghiệm sau khi chụp hình vú bởi hai bác sĩ chuyên gia sẽ đảm bảo chất lượng hơn;

2. Ung thư có thể xuất hiện qua ngày hôm sau, như bệnh lao trong cuộc tấn công vào các trực khuẩn lao. Ung thư không phải là một bệnh cấp tính, nó phát triển dần dần dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố sẽ ảnh hưởng đến các sinh vật ngay cả cơ thể con người.
Có nhiều loại ung thư vú khác nhau, điểm chung của chúng là sự tồn tại của các rối loạn trong cơ chế kiểm soát về sự tăng sinh tế bào. Đó là mức độ rối loạn để xác định sự tiến hóa chậm hoặc nhanh chóng của ung thư và ở tốc độ của quá trình tiến hóa: một chỉ số quan trọng.
Có những ung thư lúc đầu tiến hành chậm và tương đối vô hại ngay cả khi chúng bành trướng lớn ra, một số đang di chuyển từ từ mà chúng gần như không bao giờ gây tử vong. Việc xem xét bằng X quang cho thấy khối lượng tăng nhẹ.
Có khối u với tốc độ tăng trưởng cao hơn và có thể xem kết quả qua x-quang sẽ cho thấy một khối lượng tăng nhanh hơn.
Vì vậy có nhiều xu hướng khác nhau và đôi khi không thể đoán trước. Điều này có thể giải thích tại sao ung thư không nhìn thấy được thậm chí đến một thời gian sáu tháng, nhưng may mắn thay đây là trường hợp rất hiếm.

2.3. Tôi đã chụp hình vú gần đây. Hàng xóm của tôi cũng đã chụp hình vú tiếp theo sau siêu âm. Sự kiểm tra siêu âm bổ sung này nói lên điều gì?

Nếu chụp nhũ ảnh X-quang bằng hình ảnh thì siêu âm sử dụng hình ảnh siêu âm. Khi đọc hình vú là cả một thách thức bởi mật độ mô tuyến cao (ví dụ như phụ nữ trẻ dưới 35 tuổi, 4% của tất cả các bệnh ung thư vú), siêu âm là một phương pháp bổ sung tuyệt vời của sự chẩn đoán; đó là một kiểm tra không thay thế các loại khác và không nguy hại. Các đầu dò siêu âm dựa vào các mô vú và siêu âm có thể xác định, theo tiếng vọng thu được bản chất bền bỉ (ung thư hoặc khối u/bướu lành tính) hoặc chất lỏng (nang) của khối u có thể sờ nắn (palpée) trong trường hợp đầu tiên (tổn thương cứng) có thể xác định "phát hiện siêu âm” gợi ý sớm hơn bệnh ác tính là lành tính.

2.4. Tại sao một số phụ nữ phải đối phó với lỗ thủng hoặc sinh thiết (biopsie)?

Ví dụ sự chụp hình vú cho biết rằng sự tồn tại của những chấm nhỏ màu trắng được gọi là điểm vôi hóa rất nhỏ (microcalcifications), phóng xạ có dấu hiệu rất sớm với đặc điểm cụ thể của một vết thương tiền ung thư, bác sĩ sẽ chọc hút bằng một kim nhỏ, kỹ thuật này được thực hiện dưới bức xạ khảo sát để chắc chắn rằng có nhiều khu vực nghi ngờ là có thủng. Điều này là hầu như không ảnh hưởng đến việc kiểm tra và không nguy hiểm. Nếu nó là một u nang thủng thường có thể mang theo chất lỏng.
Việc kiểm tra bệnh lý của các tế bào chứa trong các mẫu cung cấp thông tin có giá trị lớn, cụ thể là các đặc tính của chính tế bào ung thư (tế bào bất thường).
Nếu nghi ngờ, bác sĩ có thể trích mẫu bướu quan trọng hơn nhờ một đầu kim to như "củ cà rốt" và sau đó cũng phải kiểm tra lại bằng kính hiển vi.

2.5. Có cách nào để phát hiện ung thư ở giai đoạn đầu?

Vâng nhờ vào sàng lọc (dépistage - tìm ra nguyên nhân), nó đòi hỏi phải nghiệm xét lại thường xuyên vú bằng cách chụp nhũ ảnh. Nếu sự xem mạch thường sẽ tiết lộ những khối u/bướu có đường kính lớn hơn 8-10 mm, việc kiểm tra bằng X-quang có thể phát hiện khối u nhỏ từ 4 đến 5 mm, không sờ thấy và không có triệu chứng. Khi ung thư được phát hiện ở giai đoạn này, nó thường không xâm chiếm các hạch bạch huyết trong nách và được giới hạn trong tuyến vú: các yếu tố tiên lượng tốt nhất của tất cả là những gì mà chúng tôi có. Tuy nhiên, chúng tôi không thể dựa vào kích thước nhỏ của khối u để dẫn đến trường hợp không có di căn.
Việc điều trị ở giai đoạn sớm rất dễ dàng: cắt bỏ khối u mà không cần cắt xén (lumpectomy) tiếp theo là xạ trị hỗ trợ. Hoàn thành chữa bệnh của các bệnh ung thư nhỏ vượt quá 90% từ một thập kỷ trước. Cuộc phẫu thuật để lại một ít vết sẹo.
Nếu bệnh nhân không được xét nghiệm bằng chụp nhũ ảnh để sàng lọc, khối u sẽ không được phát hiện bởi sự xem mạch có lẽ 2-3 năm sau đó. Ở giai đoạn này, nó đạt đến một đường kính lớn hơn 8-10 mm, với một khả năng lớn hơn xâm nhập bởi các tế bào hạch bạch huyết ung thư.

2.6 Làm thế nào để bạn xác định việc tìm ra nguyên nhân?


Việc tìm ra nguyên nhân liên quan đến việc khai thác kiến ​​thức,
- Chủ yếu là thời gian sớm gần nhất,
- Về quá trình bệnh, để phát hiện một khối u mà chưa thể hiện triệu chứng. Sau đó nó cho phép các tổn thương tiền ung thư để điều trị hoặc ung thư ở giai đoạn thay đổi có thể điều trị dễ dàng hơn. Chẩn đoán sớm phụ thuộc vào hiệu quả và việc điều trị phụ tùy thuộc vào thái độ của việc chống lại bệnh ung thư.
Tìm ra nguyên nhân ung thư vú dựa trên kỹ thuật hình ảnh y tế, hiệu quả nhất là chụp hình vú. Loại thứ hai, áp dụng rộng rãi và đáng kể, có thể làm giảm tử vong ung thư với điều kiện thử nghiệm được lặp lại thường xuyên và hỗ trợ một vài hiệu quả và nhanh chóng trong trường hợp bất thường.
Điều quan trọng là để phân biệt giữa "nguyên nhân" và "phòng chống" ung thư: phòng ngừa nhằm ngăn chặn các tế bào bình thường biến thành tế bào ung thư. Nó nhắm vào người có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư đang phát triển. Hiện nay, đối với nhiều bệnh ung thư (ung thư tuyến tụy, tuyến tiền liệt, v.v.v...) không có biện pháp phòng chống. Phòng chống ung thư vú, tuy nhiên, không còn là sự tưởng tượng và đang đạt được nhiều tiến bộ đáng kể trong những năm tới (xem đoạn 17: "Triển vọng cung cấp bởi các nghiên cứu hiện nay là gì?").

2.7. Tại sao thực hiện việc tìm nguyên nhân một cách hệ thống?

Có nhiều lý do quan trọng:
1. Ung thư vú là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ung thư ở phụ nữ châu Âu. Theo thống kê, một trong mười hai phụ nữ ở Bỉ đang đối mặt với ung thư vú trong suốt cuộc đời của họ. Tỷ lệ này c
àng ngày càng gia tăng có thể do sự gia tăng tuổi thọ của con người. Nên đồng ý rằng tất cả phụ nữ từ một độ tuổi nhất định phải trải qua kiểm tra lâm sàng để phát hiện bệnh càng sớm càng tốt;
2. Nếu bệnh ung thư được chẩn đoán sớm thì việc điều trị đơn giản hơn và sự tiên lượng sẽ tốt hơn;
3. Điều quan trọng là phát hiện ngay sau khi vết u còn nhỏ và khi sự gia tăng kích thước của bướu sẽ tạo điều kiện cho sự lan tràng của ung thư đến các hạch bạch huyết trong nách và lan tỏa qua các các tế bào ung thư trong các cơ quan khác ra khỏi (di căn) .
Sự phát hiện sớm ung thư vú nhằm mục đích gia tăng nhiều trường hợp có thể chữa trị, bằng chứng là kết quả trích dẫn năm 1963 do một công ty bảo hiểm tại New York đã quyết định đánh giá những lợi ích tiềm năng của việc tự kiểm tra và việc chụp nhũ ảnh thường kỳ mỗi bốn năm. Việc kiểm tra sàng lọc này đã được đề nghị cho 31.000 phụ nữ tuổi từ 40 đến 65 bằng cách rút thăm ngẫu nhiên. Trong số 62.000 phụ nữ thì có 67% phụ nữ đồng ý tham gia vào nghiên cứu và 50% trong số nầy chấp nhận kiểm tra ít nhất 3 lần. Mười tám năm sau, tỷ lệ tử vong ung thư vú được giảm rất đáng kể với sự quan sát sau năm năm ở phụ nữ trên 50 vẫn còn khám xét với tỷ lệ khoảng 21-25%. Kể từ đó nhiều nghiên cứu khác đã được tiến hành và hiệu quả xác nhận rất lợi ích của việc chụp nhũ ảnh hàng năm sau tuổi 50.

2.8. Chu kỳ của các cuộc kiểm tra khám nghiệm thông thường là bao lâu?

Thường xuyên kiểm tra ung thư vú với chụp nhũ ảnh được đề nghị bởi chương trình "Châu Âu chống lại ung thư" cho tất cả phụ nữ từ 50 đến 69 tuổi và được kiểm tra khám xét mỗi hai năm.
Sự gia tăng tuổi thọ của dân số, chúng tôi buộc một nhóm chuyên gia đề cử mở rộng việc khám nghiệm nới rộng lớn hơn ở phụ nữ tuổi 50-74.
Đối với phụ nữ từ 40-49 tuổi thì các nghiên cứu đang được tiến hành để đánh giá hiệu quả qua sự phát hiện (dépistage) chụp nhũ ảnh hàng năm.

3. Đánh giá sự rủi ro

3.1. Bệnh ung thư của tôi đã được phát hiện khi tôi được 41 tuổi
.



Có thể có những rủi ro phát triển ung thư di truyền cho con gái tôi không? Ở tuổi nào cô ấy nên được theo dõi? Một nghiên cứu di truyền đem lại hữu ích gì?

Đây không phải là ung thư do di truyền mà ra, nhưng là chính nhược điểm dễ tổn thương cá nhân làm ung thư lây ra dễ dàng hơn.
Dưới 10% của các bệnh ung thư vú được xếp loại "di truyền", đó là do các gene di truyền bị thay đổi. Có nghĩa là một số các gene đã được xác định, thường xuyên nhất liên quan đến được gọi là BRCAI (ung thư vú 1) và BRCA2 (ung thư vú 2). Nhưng là "tiêu cực" cho BRCAI/BRCA2 không hoàn toàn miễn dịch với một khuynh hướng di truyền đến bệnh ung thư vú (khả năng âm tính giả).
Việc thay đổi đột biến và BRCA2 và BRCAI 1 xác định gene làm tăng nguy cơ ung thư vú. Điều này không nhất thiết có nghĩa là sự đột biến này sẽ phát triển ung thư và không thể dự đoán khi bệnh ung thư sẽ xảy ra. Lưu ý một lần nữa rằng gene bị thay đổi là không di truyền cho con.
Những rủi ro khác hơn là "âm tính giả" bao gồm, dựa trên kết quả tích cực của xét nghiệm tiên đoán, đó là "phân biệt". Sự phân biệt này có thể được khai thác bởi những nhà tuyển dụng nhân viên hoặc cơ quan bảo hiểm.
Thực hiện tìm kiếm một khuynh hướng di truyền ung thư không chỉ đặt ra vấn đề quyết định của cá nhân mà còn cách đề nghị các hình thức can thiệp, nhiều nghiên cứu đang được tiến hành hầu cố gắng tìm ra phương pháp điều trị phòng bệnh hay hơn là cắt bỏ phần vú, phòng bệnh song phương (1 trong 2 phần vú cắt bỏ) và / hoặc phẩu thuật cắt bỏ buồng trứng đề phòng (cắt bỏ buồng trứng ... bởi vì một số đột biến gen BRCA2 - và đặc biệt là BRCAI - cũng liên quan với tăng nguy cơ ung thư buồng trứng).
Hãy xem xét những hậu quả liên hệ đến sức khỏe và số phận của người phụ nữ sẽ đưa ra nhiều vấn đề thuộc trách nhiệm của các bác sĩ cung cấp thông tin liên quan đến nghiên cứu di truyền (đạo đức, luật pháp, xã hội ), và mặt khác xem như cá nhân quản lý những kết quả thử nghiệm - tâm lý, xã hội, v.v.v. ..
Hiện nay các đề nghị kế tiếp là để tham khảo ý kiến
​​một chuyên gia di truyền học nếu có nghi ngờ về khả năng về bản chất di truyền của lịch sử phát triển ung thư vú.
Trong quá trình tham vấn này một "di truyền phả hệ" sẽ được thiết lập, xem xét lại các "thử nghiệm di truyền" sau khi các thông tin chính xác bệnh nhân cũng như những hạn chế và nguy cơ của việc kiểm tra.


3.2. Những người phụ nữ nào có triển vọng lớn về phát triển ung thư vú?

Khuynh hướng tăng tính nhạy cảm có thể được xác định ở phụ nữ hoặc nhiều yếu tố nguy cơ tồn tại là:
a. Tầm quan trọng của đời sống sinh dục hoặc bởi kinh nguyệt sớm hoành hành, mãn kinh muộn hoặc;
b. Thành viên trong gia đình đã mắc bệnh ung thư vú. Hiện nay được xem như tiền sử gia đình là rất quan trọng nếu trong gia đình có cha mẹ lần đầu mắc bệnh ung thư vú thì phụ nữ đó có nguy cơ lớn gấp ba lần so với một người phụ nữ có cha mẹ không vướng bệnh ung thư vú;
c. Sinh đẻ muộn: người phụ nữ thụ thai lần đầu tiên lúc gần 35 tuổi;
d. Tiền sử bệnh vú lành tính đã trải qua sinh thiết trước đó. Trong số các điều kiện lành tính, có tăng sản không điển hình "được tiết lộ bởi một số lượng tăng lên của các tế bào lót các kênh của tuyến vú thực thể này được xem là tổn thương tiền ung thư.
e. Quản lý nội tiết tố (oestrogenes) đã mãn kinh, hoặc thừa cân tại thời điểm đó;
f. Việc uống rượu nhiều gần đây đã có thể cho thấy hiệu quả của rượu trong việc thúc đẩy sự phát triển bùng nổ của bệnh ung thư vú.

3.3. Làm thế nào để phân biệt sự tăng trưởng của tế bào bình thường và bệnh ung thư?

Các tế bào của cơ thể con người đổi mới thường xuyên như một chu trình được quy định sẵn, hai trăm tỉ tế bào chết mỗi ngày và được thay thế bởi cùng một số theo khuynh hướng phát triển một cách hệ thống. Đó là tế bào sinh trưởng.
Sự phát triển của những tế bào này gây ra bởi các yếu tố tăng trưởng, chúng cho phép các tế bào diễn ra các quá trình phân tử dẫn đến phân chia thành hai tế bào con. Đồng thời sự gia tăng này bị ức chế bởi các chất ức chế kiểm soát nó. Trong quá trình phát triển phôi thai và tăng trưởng cá nhân, tác động của yếu tố tăng trưởng vượt bằng các chất ức chế. Như vậy trong trứng đã thụ tinh, nhỏ hơn một đầu kim, các tế bào tiếp tục sinh trưởng,  đựơc phân chia đều mỗi 24 giờ cho người lớn. Một sự cân bằng tốt là đạt được giữa những hành động đối kháng. Cân bằng không có nghĩa là không có gì xảy ra nhưng có nghĩa là số lượng tế bào tái tạo bằng với số tế bào chết ở một trạng thái cân bằng động. Mỗi tế bào đã biến mất được thay thế bằng một tế bào có chức năng tương tự.
Thỉnh thoảng - rất hiếm khi một tế bào có chứa dữ liệu di truyền do đột biến sai tự phát hoặc gây ra bởi các tác nhân bên ngoài (độc hại, bức xạ, v.v.v…) và thoát khỏi hệ thống điều chỉnh và kiểm soát thường là bị lệ thuộc. Nó là nguồn gốc khởi bệnh ung thư. Các tính năng chính của nó là: phát triển, xâm lấn các mô lân cận và di căn.

3.4.
Nguyên nhân gì có lợi cho sự xuất hiện của ung thư?

Việc tìm kiếm nguyên nhân đưa đến sự xuất hiện của khối u ác tính nói chung rất hay bởi vì nó giúp xác định các nhóm bệnh nhân với nguy cơ cao và nghiên cứu hướng dẫn để ngăn chặn sự biến đổi của tế bào bình thường thành tế bào ung thư.
Các nhóm này bao gồm những người hay tiếp xúc với chất gây ung thư (thuốc lá, rượu), các hoá chất độc hại như sợi đá (amiante), monochlorure de vinyl, thuốc nhuộm, thuốc trừ sâu, v.v.v..., phơi nhiễm bức xạ ion hóa (X-quang, bức xạ hạt nhân, bức xạ không gian bao gồm cả mặt trời), virus gây ung thư hoặc những người có yếu tố di truyền. Các từ ngữ "bố trí" không có nghĩa là một sự di truyền của căn bệnh mà có nghĩa là việc truyền tải nhạy cảm (một lỗ hổng) từ bên ngoài tế bào nhiều hơn nữa để chất gây ung thư.
Điều đó được biết đến ngày hôm nay là ung thư là một bệnh phức tạp có nghĩa là để nói một căn bệnh mà một yếu tố duy nhất là hiếm khi tự nó có khả năng gây ung thư; các yếu tố khác là cần thiết để gây nên bệnh. Nguyên nhân của ung thư phức tạp là trách nhiệm của y học. Kể từ khi Pasteur và những người kế nhiệm của ông, các bác sĩ đã được sử dụng để điều trị một số bệnh vì họ đã phát hiện ra nguyên nhân. Tiến hành theo nguyên nhân như thế họ sẽ cải thiện tình trạng của bệnh nhân. Chúng tôi được biết Burkitt (từ khoảng 1980) cho rằng với hầu hết các bệnh ung thư, chúng ta phải chấp nhận sự đa nguyên của những nguyên nhân, và do đó tìm nguyên nhân không chỉ một mà là số nhiều. Con người không bao giờ tiếp xúc với một chất gây ung thư duy nhất, nhưng một số lượng lớn các tác nhân vật lý hay hóa học có khả năng gây nên ung thư, hầu hết các bệnh ung thư là kết quả của các hành động kế tiếp của một số yếu tố. Điều này có nghĩa là các tế bào ung thư có một vài giai đoạn. Hầu như không cần thiết phải nhấn mạnh tầm quan trọng của những khám phá này để phòng ngừa.
Đối với ung thư vú môi trường hoạt động giữ vai tròchính và mối nguy cơ của khối bướu tăng trưởng theo việc dùng kích thích tố (
oestrogenes) như tiêu thụ rượu, có bệnh béo ph́ì nó thúc đẩy sản xuất quá mức oestrogenes . Tuy nhiên đó là một số lớn các bệnh ung thư mà không ai trong số những yếu tố này có thể không được tiết lộ!

3.5. Có phải ung thư là căn bệnh thời đại của nền văn minh của chúng ta không hay do cuộc sống đô thị và sự căng thẳng trong công việc?

Kể từ đầu thế kỷ thứ mười chín, thế giới mới biết phương Tây đã có nền công nghiệp cao, gia tăng việc sử dụng than đốt và các sản phẩm dầu khí. Và kể từ khi thế chiến thứ hai, việc sản xuất ồ ạt dùng nhiên liệu hóa chất. Hàng ngàn hóa chất mới nổi lên trong môi trường của chúng ta: thuốc trừ sâu, thuốc diệt nấm, thuốc diệt cỏ, phụ gia thực phẩm, thuốc nhuộm, vật dùng bằng nhựa, dệt may mới, v.v.v…. Tuy nhiên m
ặc dù việc xâm lấn ồ ạt các sản phẩm này vào đời sống chúng ta, tỷ lệ mắc ung thư vẫn đứng vững tương đối ổn định.
Ung thư vú rất phổ biến khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên nếu so sánh v
ới cùng độ tuổi, thì ung thư phổ biến ở những nước có mức sống cao như Âu châu và Bắc Mỹ gấp 5-7 lần nhiều hơn châu Á, những người Eskimo, Châu Phi và những nơi khác. Sự khác biệt này là không phải do yếu tố dân tộc. Ví dụ, trong các gia đình Nhật Bản có rất ít bệnh ung thư vú, nhưng trong số những người Nhật đã di cư tới Hoa Kỳ, tỷ lệ mắc ung thư vú ở phụ nữ sinh ra ở Hoa Kỳ giống như những người Mỹ khác. Nhiều ví dụ khác cho thấy tỉ số mắc bệnh ung thư vú khác nhau chuyễn dần dần từ nước xuất xứ để tăng dần gần bằng tỉ số của nước mới hội nhập. Điều này có thể cần hai hoặc ba thế hệ nửa để thay đổi từ từ và nguyên nhân liên quan chính là thực phẩm.

Phân tích sự khác biệt về tỉ số ung thư từ vùng này sang vùng khác của thế giới, cách tiếp cận của dịch tễ học (épidermiologie) hiện đại cho phép đưa ra giả thuyết về nguồn gốc của ung thư và những giả thuyết này được xác định bởi các cuộc điều tra khác. Giả thuyết này đưa đến hai khái niệm quan trọng: vai trò của cách sống là nguồn gốc của ba phần tư số bệnh ung thư và sự thay đ
ổi đáng kể về tỷ lệ mắc bệnh ung thư từ vùng này sang vùng khác.

3.6. Nếu thường xuyên uống thuốc ngừa thai có đóng vai trò quan trọng về sự xuất hiện của ung thư vú không?

Thuốc ngừa thai chứa nhiều nội tiết tố (oestrogenes) được sử dụng rộng rãi, chúng đóng vai trò có hại cho sự tăng trưởng của ung thư cũng như bạn đồng hành của hormone. Chúng tôi tin rằng việc sử dụng thuốc dưỡng thai làm cho tác động của nội tiết tố (oestrogenes) hormone sinh sôi nẩy nở. Nhiều cuộc thảo luận vẫn chưa đưa đến hồi kết. Nhiều cuộc điều tra đã được tiến hành để làm nổi bật vai trò của các hormone giới tính trong tỷ lệ mắc ung thư vú ở những phụ nữ đã sử dụng thuốc ngừa thai trong thời gian dài.
Ngày nay người ta chế thuốc ngừa thai ít chứa chất nội tiết tố (oestrogenes) thì đở hại hơn.
Hãy nhớ rằng nhiều nghiên cứu cho rằng việc sử dụng lâu dài thuốc, đặc biệt là bắt đầu trước tuổi 18, sẽ có ảnh hưởng tăng nhẹ ung thư vú.


3.7. Các nội tiết tố có vai trò gì trong sự phát triển của ung thư vú?

Các kích thích tố (hormone) liên quan đến sự hài hòa các chức năng của cơ thể, một trong những nội tiết tố ấy có thể kích thích sự gia tăng các mô, những lọai khác làm chậm lại các mô khỏe mạnh đưa đến ung thư.
Nếu nội tiết tố sinh dục có thể đóng vài vai trò quan trọng trong sự phát triển khối bướu như ở phụ nữ tiếp nhận nội tiết tố (oestrogenes) "quá lâu sau khi mãn kinh” chúng cũng rất quan trọng trong việc điều trị cả bệnh ung thư và di căn của chúng: vú và tuyến tiền liệt. Cũng như nội tiết tố (oestrogenes) có thể làm chậm hoặc ngăn chặn sự phát triển của ung thư tuyến tiền liệt, trong khi ngược lại sự điều hành nội tiết tố sinh dục có thể ngăn chặn việc kích thích sự tăng sinh của các tế bào ác tính trong ung thư vú.
Do đó tình trạng nội tiết tố rất ư quan trọng; việc phát hiện này có lợi ích thiết thực trong việc chăm sóc cho nội tiết tố nhạy cảm với bệnh ung thư. Như vậy nó tự phát triển nội tiết tố (mục 10).
Những kích thích tố khác như nói ở trên hiện đang bị nghi ngờ là yếu tố ảnh hưởng đến sự gia tăng của bệnh ung thư vú. Và như vậy mức độ cao nội tiết tố (oestrogenes
) gây tăng tiết prolactine (một hormone gây phát triển tuyến vú). Các tỷ lệ cao này được tìm thấy trong thuốc ngủ, thuốc an thần và thuốc chống trầm cảm, những liệu phẩm prolactine trong ngành công nghiệp.


3.8. Câu hỏi: "Mẹ tôi bị ung thư vú và bản thân tôi đang được điều trị ung thư vú, tôi là mẹ của ba con gái và tôi muốn biết nếu có biện pháp ngăn chặn nguy cơ cho con gái của tôi phát triển bệnh không?.

Hãy nhớ rằng ung thư vú hiếm khi di truyền và không phải là một "lỗ hổng của gia đình". Đây không phải ung thư là do di truyền, nhưng khả năng dễ bị nhiễm ung thư làm cho nó dễ dàng hơn gây ra tác nhân gây ung thư (xem 3.1.).
Cách phòng chống đầu tiên là sự quan sát 75% trường hợp các bệnh ung thư có liên quan đến thói quen cá nhân. Điều này liên quan đến sự chống lại chất gây ung thư đến từ bên ngoài cơ thể. Vì ung thư vú thật đa dạng cho nên có nhiều thực chất đem đến nhiều nguy cơ ung thư vú. Một nguy cơ nhỏ kết hợp với một nguy cơ nhỏ khác cũng có thể tạo ra, nhờ sự kết hợp của chúng, tình trạng cực kỳ nguy hiểm, đặc biệt là nếu người đó thuộc về một gia đình có ung thư vú. Không xem thường bất cứ nguy cơ nào.
Quy tắc là: tốt hơn nên xem chừng, kiểm tra càng sớm cho bất kỳ nghi ngờ nào.
Trong số các biện pháp cá nhân (cần đa dạng) được kể ra như:
1. Biện pháp có liên quan đến thực phẩm. Các chế độ ăn uống có thể đóng một vai trò trong sự hình thành của một số bệnh ung thư. Nghiên cứu cho thấy rằng 25 đến 30%
Quay trở lại ví dụ phụ nữ Nhật Bản, chúng ta biết rằng những người sống ở Nhật Bản chủ yếu ăn cá, thịt ít và rất nhiều rau, chúng phát triển rất ít bệnh ung thư vú. Những phụ nữ trẻ di cư sang Hoa Kỳ bị bệnh ung thư vú theo tốc độ nhanh chóng của ung thư vú ở phụ nữ Mỹ do họ theo thói quen ăn uống như dân bản xứ. Ung thư vú, chúng ta đã thấy, gấp 5-7 lần phổ biến hơn tại Mỹ so với Nhật Bản và châu Á, gấp 3-4 lần phổ biến hơn ở phía Bắc Châu Âu và ở các nước Địa Trung Hải. Trong khi đó đã có hiện tượng đáng ngạc nhiên khác về quy mô các nước công nghiệp:  việc tăng trưởng kích thước và làm giảm độ tuổi dậy thì cho những bé gái, trung bình hai năm trước đó so với những năm 1950.
Hai sự kiện - kích thước và tuổi dậy thì được liên kết với một sự thay đổi trong hệ thống nội tiết tố. Các tuyến yên có nhiệm vụ chính cho các quy định của tăng trưởng và chức năng của các tuyến nội tiết, bao gồm cả buồng trứng, thực sự là chịu ảnh hưởng khác nhau, đặc biệt là thực phẩm. Một chế độ ăn nhiều chất béo sẽ kích thích sự tăng trưởng tuổi dậy thì sớm. Do đó dễ thúc đẩy tỷ lệ mắc ung thư vú. Thật vậy nguy cơ vú này thậm chí còn phát triển cao hơn tùy thuộc vào sự kích thích của
oestrogenes, là một chất hormone tiết ra từ buồng trứng trong chu kỳ kinh nguyệt. Ngoài ra, các loại thực phẩm kiểu tây phương làm tăng mức độ oestrogenes trong máu. Một cuộc khảo sát được tiến hành ở Singapore  nơi chúng tôi quan sát, như ở hầu hết các nước châu Á, là một sự gia tăng tỷ lệ mắc ung thư vú đến những người phụ nữ đã áp dụng thực phẩm theo kiểu Tây Phương.
Trong số các quy tắc chế độ ăn uống khuyến cáo của Giáo sư M. Tubiana, điều quan trọng là:
- Nên tránh bị béo phì bởi vì nó làm dễ, qua một số cơ chế, tỷ lệ mắc phải vài loại ung thư. Đối tượng có trọng lượng hơn 40% trọng lượng cơ thể lý tưởng (chiều cao trong cm trừ đi 100) có nguy cơ ung thư tăng 55% đối với phụ nữ và 33% đối với nam giới;
- Hạn chế dùng chất béo ngay cả những khi chỉ cho thấy vì sự tiêu thụ chất béo quá mức sẽ làm tăng nguy cơ ung thư vú và có tác động tiêu cực đến sức khỏe nói chung.
Có ba loại chất béo hoặc axit béo, tùy thuộc vào thành phần hóa học của nó: các axit béo bão hòa, không tốt cho sức khỏe trong axit béo, mono và không bão hòa sẽ ít nguy hiểm hơn. Một chế độ ăn uống cân bằng nên chứa ba loại axit béo, nhưng tất cả các chuyên gia tư về dinh dưỡng cho biết là chế độ ăn uống Tây phương hiện nay có chứa quá nhiều chất béo bão hòa. Chúng thường chứa trong chất béo có nguồn gốc động vật. Như vậy, trong thịt bò, bơ hoặc thịt heo, 50% các axit béo bão hòa, trong khi tỷ lệ này chỉ là 10 đến 15% trong dầu hướng dương, ô liu hoặc đậu phộng chỉ chứa 30% của dầu từ gia cầm. Tuy nhiên, một số chất béo như dầu cọ hay dừa, có chứa từ 50 đến 60% chất béo bão hòa. Một số loại thịt (thịt bê, thịt gia cầm) có hàm lượng chất béo thấp hơn. Các chất béo trong cá và chất béo thực vật cần được đề cao và nên tiêu thụ nhiều.
Ngày nay người ta chế pho mát với lượng chất béo dưới 20%, cả sữa chua tuyệt vời cũng rất ít chất béo.
- Nên ăn các loại thực phẩm giàu vitamin A, E và C. Nhiều loại trái cây và rau quả rất giàu carotene (vitamin A): cà rốt, rau dền, cà chua, hành, đào, dưa hấu, v.v.v…. Caroten và các sản phẩm chế xuất nhân tạo từ loại này như retinoids có tác dụng bảo vệ chống lại một số bệnh ung thư. Tuy nhiên, chúng ta phải theo lời khuyên bác sỹ vì sử dụng số lượng quá mức retinoids có thể trởn nên độc hại. Ăn trái cây và rau quả mỗi bữa ăn đảm bảo một lượng đầy đủ. Vitamin C (ascorbic acid) có trong trái cây và rau. Nó là một chất chống oxy hóa mạnh, cần phải ăn đủ mỗi ngày.
- Cần ăn đủ lượng chất xơ.
Tiêu thụ chất xơ sợi dài có tác dụng tốt lưu thông đường ruột, nó làm giảm thời gian tiếp xúc giữa chất gây ung thư (chẳng hạn như những phát sinh từ chất béo nấu ăn, thịt cháy) và các màn nhầy ruột.
Chúng ta cũng nên duy trì một sự cân bằng giữa các chất sợi ngũ cốc như bánh mì, ngũ cốc, v.v.v…và những người hấp thụ được từ trái cây và rau với các thuộc tính khác nhau;
- Nên dùng nhiều cải bắp, súp lơ, su Bruxelles, v.v.v…..trong thức ăn cả tỏi và hành tây.. Vì cơ thể con người cũng như ở động vật, thức ăn này có khả năng làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư, kể cả những ung thư gây ra bởi hóa chất;
- Hạn chế việc tiêu thụ muối hoặc thức ăn hun khói. Trên thực tế thực phẩm quá mặn chứa lượng nitrit có thể làm phát sinh chất nitrosamine trong dạ dày. Phản ứng này được ngăn chận bởi vitamin C và E. Thịt hoặc cá hun khói có chứa hắc ín từ quá trình đốt cháy không đầy đủ (cùng một lý do cháy chất béo). Sự hình thành nitrosamine trong cơ thể được coi là một nguyên nhân chính gây ung thư ở người.
Người ta nghĩ rằng thuốc nhuộm, phụ gia thực phẩm " thịt bê nuôi bằng hormone" có thể góp phần rủi ro gây ung thư, v.v.v... Sụ lo ngại này vẫn chưa có bằng chứng cụ thể trong dịch tễ học chính thức (epidermiologique).
Những lời khuyên về dinh dưỡng thức ăn cân bằng được cung cấp tại Phòng khám bệnh ngừa và phòng chống ung thư tại Viện Jules Bordet, Trung tâm nhiễm bệnh 
Đại học Brussels;
2. Những người liên quan đến hút thuốc lá vì thuốc lá được cho là 30% thủ phạm của tất cả các loại ung thư.
3. Những người lạm dụng rượu vì rượu có thể xác định nguy cơ phụ của ung thư vú. Nó cho thấy một hiệu ứng phụ về sự xuất hiện của ung thư vú.
Nếu một trong ba trường hợp ung thư gây ra do thuốc lá thì một trong hai trường hợp ung thư gây ra bởi việc hút thuốc lá và uống rượu.
4. Những người hay đến phòng tập thể dục thường xuyên (3 hoặc 4 giờ mỗi tuần) thì sau này, ngoài các tác dụng có lợi trên sức khỏe, có thể làm giảm nguy cơ phát triển ung thư vú theo những nghiên cứu gần đây.
Hướng dẫn trẻ em vẫn chưa đủ và không phải là một cách giáo dục chính chắn mà phải tìm hiểu thói quen hàng ngày của trẻ em đặc biệt là phải cung cấp cho ví dụ cho chúng hiểu rỏ như Seneca đã nói như sau: "Con đường dài nhưng sẽ ngắn nếu cho ví dụ ngắn và dễ dàng”
Việc thứ ngăn ngừa thứ hai là thường xuyên đề phòng quan sát các khối u lành tính có thể đang ở giai đoạn tiền ung thư phát triển. Hiện nay có xuất hiện sự bất thường của mô lành (mastoses) việc phát sinh ở phụ nữ trẻ vì rủi ro gia đình: các cô cần sự chú ý đặc biệt thường xuyên đi khám bác sỹ và cần sự can thiệp của các bác sĩ ung thư.
Cách thứ ba để ngăn ngừa ung thư bằng thuốc ma túy. Sẽ có câu trả lời cho câu hỏi trong phần sau đây.

3.9 . Đã có kết quả hiện tại nào về nghiên cứu đề phòng cho nạn nhân có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú không?

Sau khi xác định một số yếu tố có lợi cho sự bành trướng của các khối u ác tính, các nhà nghiên cứu dược lý học đã đi tìm kiếm các loại thuốc có thể ngăn chặn sự xuất hiện của ung thư có nguy cơ cao cho sức khỏe,  chẳng hạn như những áp dụng về tiêm chủng ngừa hay vaccin cho cá nhân lành mạnh để chủng ngừa chống lại bệnh đậu mùa. Chúng tôi chữa trị cho các cá nhân có nguy cơ cao hầu ngăn chặn tế bào bình thường dễ biến thành tế bào ung thư.
Trong lĩnh vực "Ngăn ngừa trị liệu hóa học" nhiều tiến bộ đang được thực hiện. Đây là một trong những phát triển có nhiều hy vọng nhất. Ngay cả những người khỏe mạnh sống  trong những gia đình có tiền sử ung thư vú vẫn tồn tại để ngừa chống oestrogenes như thuốc Tamoxifen (Nolvadex ®) được sử dụng để làm giảm khả năng xuất hiện của ung thư có thể được tăng cường bằng hormone giới tính, oestrogenes: thực ra đây là cốt lõi mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển tế bào ung thư, một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của nội tiết tố phụ thuộc vào khối u, tức là có khả năng đáp ứng với điều trị nội tiết tố.
Trong năm 1998, Tamoxifen đã mang đến một niềm hy vọng lớn khi công bố kết quả của một nghiên cứu của Mỹ trên 6,681 phụ nữ có nguy cơ cao được dùng  Tamoxifen chữa trị trong thời hạn năm năm so với 6707 phụ nữ có nguy cơ cao được dùng dược phẩm khác. Nghiên cứu này cho thấy thuốc Tamoxifen làm giảm tỷ lệ ung thư vú khoảng 50%. Ngày nay có nhiều nghiên cứu khác nhau để xác nhận kết quả của Mỹ với hi vọng chứng minh và nghiên cứu, ngoài việc giảm tỷ lệ mắc ung thư vú, tăng sự sống còn của phụ nữ "trong việc hóa trị".
Có rất nhiều quan tâm mới về yếu tố chống oestrogenes như Raloxifene (Evista ®), có thể tương đương với Tamoxifen trong việc ngăn chặn ung thư vú ít nguy cơ hơn cho tử cung: dùng Tamoxifen thực sự có nguy cơ thấp nhưng lại quan trọng trong việc phát triển ung thư tử cung (khoảng 2 / 1000). Các rủi ro khác tuy thực tế rất thấp cũng nhấn mạnh: hiện tượng huyết khối các sự kiện, đa số phẫu thuật cần thiết để giảm sự kéo màn đen mắt (cataracte), vv….

3.10. Số lượng tử vong vì ung thư gia tăng nhanh chóng từ hơn một thế kỷ qua như thế vì lý do gì?

Trong khi số tử vong ung thư đã gia tăng nhanh chóng trong thế kỷ qua, đó là do trong thời gian này, cuộc sống đã phát triển, con người sống thọ hơn mặc dù ta biết rằng bệnh ung thư gia tăng với tuổi thọ. Sự gia tăng tử vong do ung thư chỉ đơn giản là liên quan đến tuổi tác con người nhưng nếu so sánh ở cùng độ tuổi thì số tử vong không tăng. Ngày nay, khoảng một nửa số bệnh ung thư được chẩn đoán ở những người trên 65 tuổi.
Ngoài ung thư gây ra bởi thuốc lá có 2 loại ung thư tăng lên đáng kể trong ba mươi năm qua: đó là ung thư vú (không phải là chúng ta thực sự biết nguyên nhân hiện tại) và ung thư da cho cả hai giới.

3.11. Dấu hiệu của khối u cho ta biết gì?

Dấu hiệu là các chất thải trong máu từ các mô khác nhau mà sự sản xuất có thể di chuyển gia tăng đáng kể trong khối u, nhưng một số viêm nhiễm - không phải ung thư - có thể dẫn đến độ cao của một "dấu hiệu" trong máu. Một dấu hiệu đặc trưng là P.S.A. (antigene prostatique) của một khối u tuyến tiền liệt. Tất cả những trường hợp khác, do gia tăng có thể phản ánh sự hiện diện của ung thư mà không mang dấu hiệu cụ thể.
Ngoài ra, có rất nhiều bệnh ung thư mà không sinh ra dấu hiệu. Sự vắng mặt của dấu hiệu không cho phép kết luận là người ấy là miễn ung thư, thông thường dấu vết rất rỏ ràng nhưng không phải luôn luôn liên quan đến sự hiện diện của ung thư.

3.12. Tại sao chúng ta tiếp tục yêu cầu xét nghiệm đánh dấu nhiều lần trong năm?

Các xét nghiệm có thể cho biết một số lợi ích trong việc theo dõi vài bệnh ung thư và có thể tình nghi tái phát, thậm chí nếu người ta chưa phát hiện lâm sàng. Đối với các chẩn đoán sớm ung thư vú, các dấu vết ít hữu ích vì chúng rất bình thường và cũng không phải "cụ thể rõ rệt".

3.13. Nếu
u lành của tuyến vú (adénofibrome) là một khối u lành tính, tại sao phai loại bỏ nó?

U lành của tuyến vú là một hạch cô lập có tính lành giống như u nang. Nó chỉ thay đổi rất hiếm trong trường hợp bị bệnh ung thư. Nó được loại bỏ vì nó có thể tăng kích thước và trở nên khó chịu.

3.14. Các loại thuốc có tác dụng gì về ung thư vú?

 Để trả lời một cách chắc chắn cho câu hỏi như thế người ta phải tiến hành nghiên cứu nhìn về phía trước trên một số lượng lớn phụ nữ dùng thuốc và nhóm khác phụ nữ không dùng thuốc và phải theo dỏi cả hai nhóm trong nhiều năm.
Các chất ma túy, chẳng hạn giống như thuốc ngủ, thuốc an thần, thuốc chống trầm cảm xứng đáng được nghiên cứu nghiêm trọng bởi vì chúng xuất hiện để được gây cảm ứng cho hormone tuyến yên, một sự tăng trưởng của một số bệnh ung thư vú.

3.15. Ung thư có thể được gây ra bởi một khối máu tụ trên vú gây ra một năm trước đây?

Một số trường hợp đã được quan sát. Lời giải thích được chúng ta chấp nhận là: nơi tụ máu "đang phát triển, các tế bào ung thư không hoạt động bắt đầu sinh sôi nảy nở dưới ảnh hưởng của yếu tố tăng trưởng. Hiện tượng ấy không gây ung thư nhưng đã "biểu lộ".

3.16. Sinh thiết hạch (biopsie d’une node) là một trong những nguyên nhân không gây ra nguy cơ lây lan bệnh ung thư?

Phẫu thuật không thể biến đổi một khối u lành tính thành ung thư. Nếu sinh thiết cho thấy rằng có những tế bào ung thư, chúng tôi không ngần ngại thực hiện phẫu thuật cắt bỏ khối u ung thư bởi vì nó không bao giờ ngủ. Bác sĩ phẫu thuật sẽ gửi các khối u đã loại bỏ để các nghiên cứu gia bệnh học lập tức phân tích. Các bác sĩ phẫu thuật sẽ hoàn thành lấp lại xung quanh khối u và bắt đầu khám phá nách. Họ muốn bảo đảm rằng các tế bào ung thư đã không xâm nhập vào tuyến lưu thông (lymphantique) nhờ kính hiển vi qua các hạch bạch huyết loại bỏ. Kiểm tra này xác định số lượng hạch tràn ngập, một loại khối u tầm mức gây hấn, nhạy cảm với hormone. Nhiều kết quả khác được thu thập để đề nghị bệnh nhân cách điều trị hợp lý và phù hợp với trường hợp đặc biệt cho nạn nhân ấy. Nếu là một khối u lành tính sự can thiệp sẽ dừng lại ở đó và để lại một vết sẹo nhỏ.
Không điều trị nào có thể áp dụng một cách rập khuôn. Ung thư vú có tầm quan trọng và tiến hóa khác nhau. Do đó phương pháp điều trị khác nhau tùy thuộc vào giai đoạn bệnh tình của nạn nhân.

3.17. Các tình trạng tâm lý có thể ảnh hưởng đến sự tái xuất và tiến triển của bệnh ung thư không?

Chúng tôi chỉ có thể trả lời câu hỏi này với một nghiên cứu tương lai và không nhìn trở lại.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng biết vai trò yếu tố tâm lý trong sự cân bằng nội tiết tố của phụ nữ với các ví dụ về các điểm dừng hoặc ít hơn quy định kéo dài liên quan đến một cú sốc tâm lý.
Hiện nay, chúng ta có thể nói rằng bệnh nhân cần quên đi bất cứ sự lo âu và sợ hãi nào làm tê liệt, nên có một thái độ xây dựng tôn trọng cách điều trị và kinh nghiệm bảo đảm bệnh tình. Cần có sức mạnh và nghị lực mạnh mẽ hơn để họ chấp nhận việc điều trị trong một thời gian dài hơn.
Khi họ bỏ qua các mặt tiêu cực của tình hình, không bị thôi miên bởi những trở ngại, những khó khăn không tăng lên do những khó khăn liên tục. Họ dường như sẽ ít nản trí vì không chắc chắn. Họ cũng là những bệnh nhân cảm thấy ngạc nhiên trước sự tiến bộ của y học.
Một thái độ tích cực đối với căn bệnh và điều trị cho thấy một dấu hiệu khá tốt như sự tiến hóa nó.

3.18. Có phải ung thư của tôi có thể được gây ra do chấn thương tình cảm, cảm giác xảy ra trong những tháng trước khi phát hiện nó?

Khi một bệnh ung thư vú chủ yếu là được tìm thấy, sự khởi đầu của ung thư hóa đã được khoảng tám năm (trung bình) và do đó không thể xảy ra cách đây vài tháng. Nó bắt đầu từ trước khi chấn thương tình cảm hay trầm cảm mà bạn nghĩ là có ảnh hưởng.

3.19. Việc kiểm tra chụp nhũ ảnh thường kỳ mỗi năm không ảnh hưởng sự phát triển của ung thư vì tiếp xúc với bức xạ về vú?

Ảnh hưởng xạ quang do chụp x-quang rất là thấp 0,05 rad (rad là đơn vị của số đo lượng năng lượng bức xạ hấp thụ bởi các mô của cơ thể). Những bức xạ nhỏ lặp đi lặp lại ở mỗi kiểm tra có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú, nhưng nguy cơ này không đáng kể, đặc biệt là ngày nay chúng tôi sử dụng những loại phim rất nhạy và giới hạn số ảnh chụp vì lợi ích dự kiến quan trọng hơn.
Để so sánh, lưu ý rằng nếu bạn sống ở Colorado ở Denver, liều xạ quang tối đa mà bạn sẽ nhận được do bức xạ tự nhiên là 1 rad trong mỗi mười hai năm; ngược lại nhược điểm ở miền Trung Massif nước Pháp là một khu vực phóng xạ cao của đá granit có thể đạt 1 rad mỗi năm tùy nơi.

3.20. Các bức xạ mà chúng tôi nhận được trong một x-quang, máy quét CT scan, hoặc quét một xương (scintigraphie – chụp đồng vị cắt lớp tiêm một chất phóng xạ mà gắn vào xương) là quan trọng?

Lượng bức xạ nhận được trong vài kỳ kiểm tra phóng xạ khác nhau tùy môi trường giao dịch như:
như ngực là 0,05 rad, cột sống thắt lưng (0,1 rad), thực quản, dạ dày (0,1 rad), đại tràng-trực tràng (0,8 rad), CT scan bụng (0,5 rad), chụp động mạch bụng (2 , 9 rad) quét: gan (0,01 rad), tuyến giáp (0,1 rad), xương (0,6 rad).

3.21. Tôi có thể tiếp tục điều trị vi lượng đồng căn (
homéopathique) của tôi cùng lúc với phương pháp điều trị khác không?

Chúng ta nên chờ xem sự hữu ích của tác dụng thuốc "song song" gọi là "mềm". Nhưng đại chúng vẫn tin rằng có thể nguy hiểm.
Nếu bạn muốn có một điều trị vi lượng đồng căn (homéopathique ), bạn nên tham khảo ý kiến với chuyên gia ung thư của bạn: ông sẽ cho phép bạn hầu hết thời gian dùng thuốc vi lượng đồng căn nhấn mạnh với bạn về sự thiếu minh chứng khoa học về tính hữu dụng của nó.

3.22. Các phương pháp điều trị để chữa bệnh ung thư là gì?

Sự sống còn mà không có dấu hiệu rõ ràng của bệnh, năm năm sau khi điều trị được xem là khả quan cho việc chữa bệnh, hầu hết các bệnh ung thư, sau đó chuyện tái phát là rất hiếm. Tuy nhiên căn bệnh có thể trở lại trong 10, 15 hoặc 20 năm sau khi chẩn đoán trong trường hợp ung thư vú. Đáng chú ý là ung thư vú. Ngoài ra thay đổi trong tinh tế và do đó nó đòi hỏi một sự theo dõi liên tục "cho cuộc sống".

3.23. Một bệnh nhân viết: Tôi đã mổ ung thư vú sáu tháng trước, có phải bình thường tôi phải kiểm tra bác sĩ mỗi ba tháng? Tại sao không làm kiểm tra đầy đủ theo chu kỳ bình thường?

Sự theo dõi sau phẫu thuật ung thư vú chủ yếu là khám lâm sàng cẩn thận trong mỗi ba hoặc bốn tháng trong hai năm, mỗi bốn đến sáu tháng giữa năm thứ hai và thứ năm và hàng năm sau đó. Ngoài việc kiểm tra của bác sĩ hoặc bác sĩ phẫu thuật (tại Viện Jules Bordet, nói chung lịch thăm được xen kẽ: thuốc, phẫu thuật, xạ trị), nên tập thói quen thực hiện một chụp nhũ ảnh hàng năm để theo dõi cũng như cho vú thứ hai, một thử nghiệm có thể phát hiện sớm ung thư vú xảy ra cho vú thứ hai (nguy cơ phát triển vẫn còn thấp nhưng tăng nhẹ trong sau bệnh ung thư vú đầu tiên).
Nghiên cứu thực hiện tốt chứng tỏ rằng việc hoàn thành kiểm tra thường kỳ về xương (scan), gan (siêu âm) hoặc phổi (chụp x-quang) là không có lợi: những kiễm tra này nên làm theo trường hợp yêu cầu cụ thể như xương đau, giảm cân, ho dai dẳng, ...Hoặc có thể theo dõi 2 năm đầu là năm vì mối nguy cơ tái phát cao nhất cho ung thư phát triển nhanh chóng. Bác sĩ sẽ chú ý cẩn thận để tránh các tác dụng phụ khi điều trị lâu dài ung thư vú, chẳng hạn như bệnh loãng xương (sự tăng tốc độ của thời kỳ mãn kinh sớm bởi hóa trị hoặc tắc nghẽn của buồng trứng), độ đau khớp xương, mệt mỏi, trầm cảm.

4. Di căn ung thư vú

4.1 Di căn

Một tế bào ung thư có thể tách ra khỏi khối u nguyên phát, các " khối u mẹ " sẽ di chuyển dọc theo mạch, tự đặt trong một mô khác hơn mà nó được hình thành và sinh sôi nảy nở. Chúng ta cho rằng khối u chính đã dẫn đến di căn. Sự lây lan chịu ảnh hưởng đến sự phát triển của các khu vực các tế bào ung thư đôi khi rất mạnh từ khối u nguyên phát. Chúng sẽ lớn lên để bồi dưỡng sinh ra khối u phụ.
Một khi các khối u nguyên phát không di chuyển đến tế bào theo sự lưu thông, thì nó không thể di căn. Chúng sẽ tiếp xúc với sự lưu thông và xâm nhập vào bên trong khối u chúng sẽ trở nên tiềm năng di căn.
Nếu khối u phát sinh nhanh chóng hơn, có nghiã là tăng trưởng hơn tốc độ di căn rất nhiều, thì các tế bào ung thư sinh sản nhiều và nguy hiểm. Điều quan trọng là sự tiên lượng khối u hoặc xác định mức độ nghiêm trọng của nó mà chủ yếu là việc xem xét tốc độ tăng trưởng của nó chứ không phải khối lượng như người ta vẫn nghĩ.

4.2 Trường hợp nào thì di căn thường phát hiện trong bệnh ung thư vú? Làm thế nào để chúng ta phát hiện chúng?

Theo Meissner và Warren (trong Pathology, Ed WA.D, Anderson, CV Mosby, 1971, 538), các khu vực các hạch thường là bước đầu tiên trong di căn, sau đó nó bành trướng mở rộng ra phổi, gan, xương, tuyến thượng thận, da và vài trường hợp đến bộ não.
Các bành trướng mở rộng chỉ được các chuyên gia biết đến. Để phát hiện nó, họ sẽ làm xét nghiệm như chụp X quang ngực, xương quét, siêu âm gan, nội soi phế quản, v.v.v…nhưng những cố gắng do các dấu hiệu khối u nhất định trong trường hợp di căn sẽ tăng trên mức bình thường 80% trường hợp.

4.3. Làm thế nào chuyên gia về ung bướu có thể xác định khối u chính hoặc khối u thứ cấp?

Điều quan trọng cần lưu ý rằng nếu di căn đến phổi và sự phát triển lan rộng khối u này vẫn được coi là ung thư vú thứ cấp bởi vì khối u bao gồm các tế bào khối u vú không phải là khối u phổi.
Bằng cách kiểm tra các tế bào ung thư dưới kính hiển vi, các bệnh học có thể xác định các tế bào lấy từ khối u di căn của bệnh ung thư giống với những ung thư nguyên thủy.

4.4. Phương pháp điều trị gì được sử dụng cho ung thư di căn?

Khi ung thư đã di căn, nó có thể được điều trị b
ằng hóa trị (chimiotherapie), nội tiết tố trị liệu (hormonotherapie), xạ trị (radiographie), phẫu thuật, miễn dịch (immunotherapy) hoặc sự kết hợp các liệu pháp này. Việc lựa chọn điều trị thường phụ thuộc vào loại ung thư chính, kích thước, vị trí của di căn, tuổi tác và tình trạng tổng quát của bệnh nhân và lai lịch điều trị.

4.5. Trong quá trình tiến hóa di căn thời điểm nào có thể bị phát hiện?

Là một khối u sơ khởi, việc xác định các di căn tùy thuộc vào thời gian và đòi hỏi rằng nó phải đạt đến một khối lượng lớn có thể nhìn thấy bằng kỹ thuật hình ảnh. Một khối u di căn bao gồm hằng ngàn t
ế bào trở thành vô hình cho tất cả các kỹ thuật hình ảnh mặc dù nó vẫn tồn tại. Tăng việc đánh dấu khối u có thể đi trước một vài tháng phát hiện di căn. Tuy nhiên không có chứng minh cụ th rằng việc điều trị chỉ dựa trên độ cao của dấu mốc là có lợi.

4.6. Sự khác biệt giữa một khối u vú phát triển thấp và khối u có nguy cơ di căn cao?

Trái với những gì chúng ta nghĩ, không phải lúc nào sự phát triển của khối u cũng được xác định được mức độ nghiêm trọng của nó. Cũng như một số khối u lớn phát triển rất chậm chỉ nguy hiểm sau nhiều năm khi nó bắt đầu đè nén các cơ quan lân cận, xâm nhập hoặc đưa di căn xa. Đó là khả năng di căn xác định tính chất nguy hiểm của khối u. Nếu khối u sinh sôi nhanh hơn thì di căn xảy ra sớm và nhiều hơn. Chúng tôi không nghĩ rằng các nét nhỏ trên khối u nguyên phát có thể khẳng định rằng không có di căn (xem bảng 3 và thuyết minh kèm theo).

4.7. Sự tái phát và di căn xa có thể biểu hiện những năm sau khi điều trị các khối u nguyên thuỷ? Tại sao?

Đúng vì nhiều lý do. Trong trường hợp phẫu thuật việc cắt bỏ khối u sợ chưa đủ lớn, sự tái phát trong khu vực, nơi họat động có thể xảy ra và được tiếp diễn vài tháng sau đó với phát triển di căn "từ xa". Trong trường hợp hóa trị, xạ trị, liệu pháp phóng xạ (curiethérapie) có thể có các tế bào chưa bị tẩy sạch bởi các phương pháp điều trị được gọi là "độc tế bào" và ảnh hưởng đến sự phát triển của di căn.
Nó cũng có thể có di căn nhỏ nhưng vẫn vô hình đối với tất cả các kỹ thuật chụp ảnh trong một thời gian tùy thuộc vào tốc độ phát triển.
Ngoài ra, các tế bào ngủ yên "không hoạt động" không thể bị phát hiện, trong những hoàn cảnh đặc biệt như sau khi chấn thương hoặc tình trạng viêm có thể hoạt động và sinh sôi nảy nở lại. Những tế bào không hoạt động này được xem như nguồn gốc của di căn muộn.
Một số nghiên cứu y tế hiện nay v
ới mục đích tìm tòi việc điều trị nội tiết tố lâu dài (quản lý trên 5 năm sau khi chẩn đoán) trong nỗ lực tiêu diệt sự hoạt động các tế bào khó loại bỏ bằng thuốc (hóa trị và / hoặc liệu pháp hormone) mà người ta cố gắng điều trị trước đó.

4.8. Một khối u vú có thể không được phát hiện di căn?

Chỉ đúng ph
ần nào thôi. Nơi mà di căn được phát hiện chuyển đến một đường hướng khác để tìm kiếm bộ phận nơi khối u nguyên phát “không triệu chứng” được phát triển. Đôi khi nó không dể được tìm thấy.

4.9. Tại sao hiện tượng di căn được coi là nghiêm trọng hơn so với khối u bộc phát?

Di căn không phát triển cùng tốc độ như các khối u nguyên phát. Nếu khối u nguyên phát có thời gian gấp đôi 100 ngày thì di căn có một thời gian gấp đôi thấp hơn. Tế bào di căn cũng được chứng minh là khó khăn hơn so với tập trung ban đầu. Mặc khác khi di căn được phát triển cùng lúc trong các cơ quan, nó không thể bị loại bỏ bởi phẫu thuật hoặc xạ trị. Chỉ hóa trị bằng thuốc có thể giảm đà phát triển của chúng. Trong trường này hiện tượng di căn đang trong tình trạng nặng hơn.

4.10. Biện pháp trong điều trị có khác nhau tùy thuộc vào việc bệnh ung thư hoặc chưa đạt đến các hạch bạch huyết ở nách?

Điều quan trọng là trong trường hợp này:
• Nếu khối u đang phát triển, vừa sinh ra hay chưa lan ra các thoát bạch huyết, người ta nghĩ là các tế bào ung thư không tách ra khối u nguyên phát và không thể xâm chiếm các cơ quan khác. Sau khi các thông tin đầy đủ nhất được thu thập và một điều trị tốt, người ta có thể lạc quan về việc phục hồi (xem bảng 3, 4 và 5 và lời thuyết minh kèm theo);
Nếu các hạch bị ảnh hưởng sẽ có khả năng của một di căn khoảng cách. Nhóm các bác sĩ liên ngành gồm phẫu thuật vú, ung bướu và bức xạ ung bướu sẽ trải qua nhi
ều giao đoạn để xác định trình tự tốt nhất trong phương pháp điều trị.

5. Lấy quyết định

5.1. Bạn cần nên có nhiều tư vấn để có nhiếu ý kiến bác sĩ ung thư trong việc chẩn đoán?

Nếu ngày nay chúng ta biết rỏ hơn các bệnh ung thư thì chúng tôi cũng quán phiệt tốt tính chất phức tạp! Sự phát hiện bất thường các gen mới liên quan đến nguồn gốc hay tiến triển của bệnh ung thư đã rút ngắn thời gian đáng kể như việc tìm ra các loại thuốc mới hiệu quả hơn nhằm nhắm vào mục tiêu những gen này. Tuy nhiên hiện vẫn còn khó khăn để dự đoán sự phát triển của ung thư hoặc cơ hội để trả lời một loại thuốc cụ thể. Sự không chắc chắn tiếp tục là một trong những thành phần mà các chuyên gia ung thư phải đối phó và buộc phải lựa chọn giữa một số đề xuất cho áp dụng.
Một số bệnh nhân tin tưởng vào bác sĩ và lấy quyết định theo sự đề nghị.
Trong khi những người khác đòi hỏi một ý kiến ​​thứ hai hoặc thậm chí thứ ba, và được nhận những trả lời khác nhau. Đôi khi vấn đề không được giải quyết cho bệnh nhân và vẫn còn lẫn lộn bởi về nhiều quan điểm khác nhau. Chưa kể đến các bệnh nhân tiếp tục tham khảo ý kiến bác sỹ đến khi nào họ có câu trả lời thỏa đáng, ví dụ loại bỏ một phần của vú trong khi họ được đề nghị là cắt bỏ hoàn toàn.
Điểm quan trọng cần được quan sát khi ung thư được chẩn đoán là theo một quy trình điều trị sẽ được quyết định là kết quả của sự hợp tác chặt chẽ giữa các chuyên viên trong nhóm nghiên cứu đa ngành để giúp đở các bệnh nhân - bác sĩ về ung bướu, phẫu thuật, xạ trị liệu, chuyên gia xạ trị máu. Mỗi chuyên gia thiết lập và phối hợp các chương trình hành động trên cơ sở chuyên môn của các nghành khác. Trong trường hợp thiếu vắng một trong những ngành năng động "đa ngành", tìm một ý kiến ​​thứ hai có thể sẽ khó khăn hơn ...

5.2. Làm thế nào để lựa chọn các chuyên gia ung thư mà chúng ta sẽ tin tưởng?

Câu hỏi này khó tránh khỏi khi g
p bác sĩ thiếu năng khiếu, nhưng rất quan trọng cho các bệnh nhân có quyền chọn bác sĩ. Để trả lời câu hỏi này chúng ta thử xác định chân dung của chuyên gia ung thư để khi đối đối mặt với bệnh nhân chúng ta sẽ phán xét giữa lương tâm và nghề nghiệp một mặt còn mặt kia là sự tin tưởng (một thách thức!). Điều cần được cân nhắc là :
1. Phải thực sự lắng nghe bệnh nhân với lương tâm con người mà chẩn đoán có thể có tác dụng cho bệnh nhân;
2. Hiểu rỏ tình hình thực tế tốt nhất trong tất cả các trường hợp phức tạp của họ và cho giải thích thật đơn giản và chính xác về các lựa chọn trị li
ệu theo đề nghị của việc giải thích các dữ liệu chẩn đoán: loại bỏ một phần hoặc toàn phần vú, lọc máu trị, tiếp theo bằng hóa trị (chimiotherapie), xạ trị kết hợp với liệu pháp phóng xạ (curiethérapie), v.v.v…;
3. Thông báo các lựa chọn điều trị một cách thích hợp nhất và quy tắc thực hiện tùy vào mức độ gây hấn của khối u, các phần mở rộng phát hiện, v.v.v…;
4. Cho biết quan điểm về hiệu quả điều trị dự kiến (effets therapeutiques), tác dụng phụ và sự rủi ro theo các dữ liệu mới nhất từ ​​các tài liệu y tế;
5. Trả lời tất cả các câu hỏi mà không dấu diếm
với lương tâm con người;
6. Cho biết rằng sẽ có khả năng tốt hơn xác định từ các lựa chọn tốt nhất để điều trị với sự hợp tác giữa các bác sĩ phẫu thuật, xạ trị ung bướu hoặc hóa trị máu (chimiothérapie) được đề nghị;

5.3. Một bệnh nhân viết, "bác sĩ phụ khoa khuyên tôi không nên tham gia vào các xử lý phức tạp và chỉ nói rằng nên thực hiện phẫu thuật. Khi tôi đề nghị xin một ý kiến ​​thứ hai tại trung tâm ung thư, tôi đã gây cho ông sự tức giận. Tôi nên làm gì lúc đó?"




Điều này hơi ngạc nhiên về hành vi của bác sĩ phụ khoa! Yêu cầu của bạn thật dễ hiểu: rõ ràng là hai ý kiến luôn tốt hõn một.
Một đồng nghiệp có thể có bất đồng ý kiến ​​ như trong bất kỳ tình huống nào không chắc chắn khi đối phó với thực tế, hoặc trường hợp không chắc chắn hầu như không tồn tại. Các cuộc đối chất quan điểm là yếu tố của sự tiến bộ khi sự suy nghĩ lại thay thế cho s
tự mãn cá nhân.
Xin ý kiến ​​thứ hai của bệnh nhân, trên tinh thần độc lập trong hoàn cảnh khá đặc biệt, tuy nhiên, có xu hướng làm sai ý nghĩ. Đây là một hành động xây dựng để đặt câu hỏi bình tĩnh về sức khỏe mặc dù nó gợi lên sự lo lắng. Ở một số người, họ muốn nhận được nhiều ý kiến để biết tất cả sự thật của vấn đề là điều cần thiết để được an tâm hơn về vận mệnh của họ. Một bài học tốt về tự chủ!
Hỏi ý kiến ​​khác trong một trung tâm ung thư chuyên môn có thể rất có lợi như phương tiện để điều trị, làm giảm và chữa lành cho bệnh nhân được phát triển đáng kể trong những năm gần đây và "triển vọng công bố vào ngày sinh học và điều trị mang đầy hứa hẹn phụ thuộc vào những trung tâm n
ày”.
Nếu các bác sĩ chuyên khoa ung thư viếng thăm các trung tâm tối tân này, họ sẽ  có đề nghị tốt hơn để điều trị thật tình ngay từ lúc đầu ... và gây niềm tin tốt cho bệnh nhân trong những giai đoạn đầu tiên.

5.4. Tiêu chuẩn gì để lựa chọn bệnh viện, phòng khám, y viện nhỏ/lâm sàng (Clinique)?

Có nhiều sự khác biệt về khả năng chuyên môn giữa các cơ quan y tế cũng như có sự chênh lệch tương tự ở bác sĩ y khoa. Đối với ung thư, chúng tôi không chọn một cơ quan vì gần nhà hoặc vì nó nằm trong thành phố lớn. Chúng tôi chọn y viện vì có chuyên khoa v
ung thư với nhiều chuyên khoa khác nhau đ chống lại ung thư, xử lý vật liệu có chất lượng bảo đảm tốt nhất trong các phương pháp điều trị trường kỳ. Chúng tôi chọn nơi đó vì nhân viên có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực ung thư vú, cởi mở về phương pháp điều trị thử nghiệm, đang phấn khởi và sáng suốt đ hỗ trợ tâm lý giúp bệnh nhân trải qua tình huốn không chắc chắn tạo ra bởi bệnh tật và sợ chết.
Một yếu tố cần ghi nhớ khi lựa chọn bệnh viện là những hiểu biết giá cả thực tế. Điều này đã được đề cập trong cuốn sách "Tiếng nói của sự bình tĩnh để đáp ứng những mối quan tâm" phiên bản thứ 3, trang 282 và sau đây, cuốn sách này là sưu tầm các câu hỏi và câu trả lời trong nh
ững cuộc tiếp xúc với bệnh nhân ung thư. Sách được phân phối miễn phí tại Viện Jules Bordet, Boulevard de Waterloo 125, B-1000 Brussels, Tầng 3, Ban Thư ký tham vấn trong giờ hành chính (Tel. 32.2/541.30.75 ° Fax. 32.2/538.08.58 - E-mail martine.piccart @ bordet.be). Sự lựa chọn bệnh viện sau khi tham khảo tài liệu có chứa thông tin thiết thực trong lúc nằm viện.
Bạn không cần nghe lời khuyến cáo của bác sĩ v
ề sự lựa chọn y viện.
Mặc khác nếu bạn muốn được điều trị của bác sĩ, bạn nên đi khám ở viện mà ông làm việc.

6. Phương pháp điều trị tùy chọn (thérapie)

6.1. Phương pháp điều trị tùy chọn là gì?

Trong sự ra đời của các tế bào ung thư nguyên phát, tức khối u phát triển được sinh ra, trong trường hợp ung thư vú là chủ yếu nằm trong các tuyến dẫn sữa (thông qua ngoài qua núm vú). Khi chưa đạt được các mô sâu của tuyến vú và các tế bào có thể nhập vào tuyến máu và di căn (metastaser). Ung thư thường là khu vực (local): nó được gọi là ung thư "tại chỗ". Phẫu thuật thường là công cụ trị liệu lý tưởng để loại bỏ.
Đây là các tế bào ung thư xâm lấn mô xung quanh, được gọi là ung thư xâm lấn, ở giai đoạn này có một nguy cơ xâm lược của mạch máu (bạch huyết và / hoặc máu) và do đó nguy cơ di căn.
Sau khi gieo các tế bào khối u từ xa bằng mạch bạch huyết đến các hạch bạch huyết nách, và qua máu đến bất kỳ điểm nào của cơ thể (chủ yếu trong xương, gan, phổi, và xa hơn nữa nhưng hiếm đến não), lúc ấy ung thư trở nên phổ biến hơn. Các tế bào ung thư phát triển ở các mô khác ngoài khối u nguyên phát được gọi là di căn. Các tế bào sinh sản bội phần khối u mới có thể phát hiện được bằng X-quang khi kiểm tra. Cách điều trị ung thư vú và di căn thường là một sự kết hợp của xạ trị, phẫu thuật, hóa trị (tiêu diệt tế bào ung thư bằng lượng hóa học) và liệu pháp nội tiết tố (hormonotherapie - để ngăn chặn sự tăng trưởng oestrogene trong các tế bào của nội tiết tố nhạy cảm), vì thế trở nên phức tạp và khó điều trị hơn bất cứ một sự
điều trị nào hoặc kết hợp với những cách điều trị khác. Chúng ta cố gắng tiêu diệt bất kỳ tế bào ung thư và các mô khỏe mạnh dù  vẫn quan tâm đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Phẫu thuật và xạ trị là phương pháp điều trị địa phương hoặc koregionaux trong khi hóa trị và ung thư trị lại rất hiệu nghiệm để chửa trị hormon lan rộng mà bình thường không thể được chữa khỏi bằng phương pháp điều trị địa phương.

6.2 Làm thế nào xác định được là sự lựa chọn điều trị đúng?

Một khi chẩn đoán (diagnostique) được biết thì nhiều khám nghiệm khác nhau sẽ cung cấp các yếu tố đó có thể xác định loại bư
u u như kích thước phát hiện, mức độ gây hấn và tốc độ tăng trưởng (tăng gấp đôi thời gian), các nội tiết tố phụ thuộc (có nghĩa để nói khả năng đáp ứng thuận lợi với điều trị nội tiết tố), di căn xa trong gan, phổi, xương, v.v.v... Dựa trên kết quả của tất cả yếu tố này, một sự đánh giá tiên lượng có thể được thảo luận và phát hành bởi nhóm chuyên gia y tế trong các cuộc họp đa ngành bao gồm nhiều chuyên gia đoán bệnh (diagnosticiens như bác sĩ quang tuyến, giải phẫu bệnh) và trị liệu (bác sĩ phẫu thuật, ung bướu, xạ trị ung bướu). Một phương án trị liệu phức tạp sẽ quyết định tình hình, hoặc sự tiến triển di căn theo thời gian có thể được đề xuất cho bệnh nhân trong trình tự theo ngành chuyên môn cao.
Sư lựa chọn tốt nhất cho bất kỳ cá nhân nào cũng phải được xác định bằng thực tế khách quan về tình trạng khối u và sự lý luận chặt chẽ của các chuyên gia y tế để làm sáng tỏ các tài liệu y khoa mới nhất (xem bằng các ví dụ, Bảng 3, 4, 5 và phụ chương).
Nhưng sự lựa chọn điều trị tốt nhất không phải là một bảo đảm chữa khỏi hoàn toàn vĩnh viễn. Nếu sự phát triển nhanh chóng về kiến ​​thức y tế, dụng cụ chẩn đoán và điều trị đã gia tăng kiến ​​thức hiểu biết về căn bệnh này mà quá trình tiến hóa và cơ chế của nó chưa hoàn toàn được biết đến và vẫn tiếp tục được quản lý bởi các bác sĩ lâm sàng. Bệnh nhân nên hiểu rõ điều này. Bệnh nhân sẽ cùng chiến đấu với đội ngũ y tế, thực ra là những nhược điểm của sự trị và nguy cơ xảy ra có thể nhiều hơn hoặc ít hơn dự đoán.

6.3. Ai xác định được trình tự về phương pháp điều trị phù hợp nhất?

Lấy quyết định điều trị tốt nhất theo cách tuần tự, chế độ ứng dụng và thời gian tối ưu cho sự can thiệp được hoạch định bởi nhóm chuyên môn đa ngành bao g
ồm các bác sĩ phẫu thuật, ung bướu trị và bức xạ ung bướu của y tế. Họ sẽ xem xét từng trường hợp riêng rẻ tùy theo tuổi tác, sự chấp thuận hoặc bài bác điều trị lâu dài và nặng nề, tìm kiếm mức độ an toàn tối đa.
Nhiều câu hỏi liên quan nhưng quan trọng như:
- Có cần thiết làm một hóa trị ban đầu để giảm kích thước của khối u chính trước khi điều trị dứt khoát (xạ trị hoặc phẫu thuật)?
- Có cần đề nghị bệnh nhân điều trị bảo thủ như loại bỏ một phần của vú (tumorectomie) tiếp theo bức xạ trị hoặc cắt bỏ vú (loại bỏ các tuyến, các núm vú và quầng vú)?
- Có cần tái tạo vú giả theo yêu cầu của bệnh nhân nhanh chóng sau khi loại bỏ tất cả khối u hay sẽ được làm sau?
• Có cần làm xạ trị duy nhất các khối u nhỏ ch
ăng?
• Etc ...sẽ được thảo luận để suy ra quyết định hay nhất trong các phương pháp điều trị.

7. Phẫu thuật

7.1. Nếu bác sĩ phẫu thuật thực hiện một sinh thiết (loại cắt bỏ vú) là tồi tệ hơn nếu loại bỏ một một phần của tuyến vú (tumorectomie)?

Phẫu thuật ung thư độc đáo ở chỗ nó đòi hỏi một kiến ​​thức toàn diện của bệnh ung thư. Thật vậy cắt bỏ đầu vú chỉ là một phần của điều trị ung thư nếu được mở rộng. Phương pháp điều trị khác (xạ trị, hóa trị, liệu pháp hormon) cần bổ sung cho phẫu thuật. Điều này đòi hỏi sự hợp tác thường xuyên với các chuyên gia ung thư xạ trị, và / hoặc ung bướu của y tế để giảm đến mức tối thiểu nguy cơ tái phát.

Nếu bác sĩ phẫu thuật thực hiện việc loại bỏ tất cả các tuyến vú, tuy nhiên không nên kết luận rằng trường hợp là vô vọng, việc loại bỏ hoàn toàn có thể được dựa trên nhiều lý do như yêu cầu của bệnh nhân để được sự an toàn tối đa;
Sự lo ngại v
sự tái phát trong phần còn lại của tuyến sau khi loại bỏ một phần có thể là biện minh cho hành vi này, sự việc này dễ hiểu hơn ở một độ tuổi nào đó vì họ thận trọng về vấn đề thẩm mỹ.
Cần lưu ý là sự cắt khối u  (tumorectomie) được thực hiện trong điều kiện tốt sẽ kéo dài sự sống hơn là cắt bỏ vú, theo kết quả của nghiên cứu lâm sàng tiến hành một cách cẩn thận thì việc loại bỏ hoàn toàn có thể được quyết định bởi sự tồn tại của một số khối u không lân cận;
Một lý do khác là một mối quan hệ không thuận lợi giữa kích thước của khối u và vú, trong trường hợp phẫu thuật bảo thủ sẽ đưa dẫn đến một kết quả thẩm mỹ. Nghiên cứu về cấu trúc vi mô và sự xâm lấn của các tế bào ung thư đư
ợc thực hiện trong khi phẫu thuật sẽ cung cấp cho bác sĩ phẫu thuật những giới hạn về  sự bành trướng của khối u, sau đó việc hiểu biết về việc tiêu diệt tiêu điểm nhỏ sẽ tốt hơn là loại bỏ phần quan trọng và có thể đề nghị sự cắt bỏ hoàn toàn.
-Trường hợp khối u trung tâm retromamelonnaire, việc loại bỏ hoàn toàn là cần thiết để ngăn ngừa tái phát.

Xin xem tiếp phần 2

Tham khảo: 

Những nghiên cứu về sự phát triển của ung thư được dựa trên sách của Tiến sĩ GERNER về "ung thư".  La Vie Claire chỉnh sửa.



Thông tin theo hồ sơ cho bệnh nhân và được: "Các nghiên cứu lâm sàng", do EORTC 83, 
Ave E. Mounier, BTE 11, B-1200 Brussels. Tel. 32.2.774.16.30.
Dịch từ nguyên bản của Emile Gevenois và Martine J. Piccart Gebhart
Tiến sĩ D. Vander Steichele, giám đốc của Liên đoàn chống ung thư Beige scientic, một tổ chức phi lợi nhuận, 479, Chaussée de Louvain, B-1030 Brussels. Điện thoại: 32 2 733 68 68..

Hội chống ung thư Thụy Sĩ ; 40 Effingerstrasse, Postfach 8219, 3001 Bern Thụy Sĩ Tel 031 389 91 00

Snowynguyen, phiên dịch theo sách Ce que vous ameriez savoir à propos du cancer du sein do Quỹ Từ Thiện Jean-Claude Heuson asbl cung cấp.
Chỉnh sửa Phuc Nguyen
Hiệu ứng tuyết rơi